VƯƠNG HỒNG HOAN
Vài năm gần đây truyện ngắn của Triều Nguyên xuất hiện trên Sông Hương. "Tháng bảy không mưa" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp một số những sáng tác chưa được công bố của anh. Đề tài chủ yếu trong tập truyện là viết về nông thôn.
Phát huy thế mạnh của một cây bút gần gũi trăn trở với nông thôn, Triều Nguyên đã đưa vào trong tác phẩm hình ảnh của người nông dân chất phác, những người lao động bình thường, giản dị với những nét đẹp trong phẩm chất đạo đức và cả những hạn chế khiếm khuyết của họ. Xuất hiện vào những năm cuối thập kỷ 80 giữa lúc truyện ngắn nước ta đang có những biến đổi lớn cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật độc đáo và đa dạng, truyện ngắn Triều Nguyên thật khó tạo nên một dấu ấn sâu đậm, một bản sắc riêng ngay từ đầu trong tâm trí người đọc. Tuy vậy, như những bức tranh nho nhỏ, như những nét phác thảo ký họa, tập truyện gợi cho người đọc những suy nghĩ khó quên. Với lối dẫn dắt câu chuyện giản dị, tác giả biết phát hiện những vẻ đẹp vẹn nguyên của người lao động bình thường. Đó là bà mẹ hơn bảy mươi tuổi đã già yếu vẫn cùng cháu con đi đạp nước chống hạn cho lúa trong một đêm trăng huyền ảo và câu chuyện mẹ kể trong một đêm trăng ấy vừa thực vừa mộng vừa gần gũi vừa xa xôi được đúc kết từ bao nỗi đắng cay chua xót và hạnh phúc của một đời người (Trăng hạ tuần). Lòng yêu nghề gắn bó với nghề nghiệp một cách máu thịt khiến cho ông già lái xe suốt hơn năm mươi năm cầm lái đã luôn nghĩ đến hạnh phúc cho mọi người và vì mọi người mà làm nhiều việc tốt hơn (Ông già). Ở truyện ngắn "Tháng bảy không mưa" tác giả xoáy sâu vào lòng yêu đất đai và sự gắn bó khăng khít của người nông dân với quê hương, bản quán. Thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống bế tắc khiến cho người nông dân chân trần, cần cù chất phác phải bỏ nhà đi tha phương cầu thực. Thế nhưng dù sống ở "đất khách quê người" họ vẫn luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn trước đây với tình cảm sâu lắng da diết. Hình ảnh ông Huyến - trung tá về hưu, sớm chiều khuya khoắt vẫn gắn bó với rừng dương một cách âm thầm, trước sự biến động phức tạp của dòng đời ngay trong làng xóm ông, có tính chất cụ thể và cũng có ý nghĩa tượng trưng (Khoảng trống phía sau). Ở những truyện ngắn vừa kể trên, nhân vật có tên hoặc không có tên đều được tác giả dựng lên với dụng ý để khắc họa một vẻ đẹp của người lao động bình thường trong xã hội chúng ta. Ở các truyện "Vợ chồng chị Diệu", "Hôn lễ", "Tôi là người sung sướng", Triều Nguyên cũng vẫn đề cập đến thân phận những người lao động nghèo đói với những đau khổ, đắng cay và hạnh phúc của họ. Hạnh phúc như trái ngọt nhưng thật khó thay đối với "những người dưới đáy", "phó thường dân" như Loan như Tiệp. Họ phải lên rừng đi tìm trầm, đào vàng và phải đánh đổi cả tính mạng của mình để cuối cùng chỉ là được chết bên nhau (Hôn lễ). Vợ chồng chị Diệu tìm hạnh phúc như hai kẻ giành nhau một tấm chăn hẹp trong đêm đông giá rét. Họ đều phải trả giá, cái giá quá đắt đối với hạnh phúc mà họ có được (Vợ chồng chị Diệu). Ở truyện ngắn "Tôi là người sung sướng", tác giả viết theo dạng như tự thuật làm cho người đọc càng cảm thông với những cây bút trẻ hiện nay. Để có những giờ phút hạnh phúc trong sáng tạo văn chương, nhân vật tôi - cây bút trẻ - phải lăn lộn, trăn trở, vất vả biết bao trước sự thử thách nghiệt ngã của cuộc sống đời thường. Và điều đáng quý là người viết vẫn biết vượt lên để có những tác phẩm có ích cho đời.
Ở tập truyện ngắn "Tháng bảy không mưa", Triều Nguyên không có ý định thể hiện những xung đột gay cấn, những tình tiết giật gân mà chỉ tập trung khắc họa những chân dung người lao động bình thường, giản dị ở một vùng đất mà anh thông thuộc, gắn bó. Ở trong nhiều truyện ngắn của mình, Triều Nguyên tỏ ra am hiểu sâu sắc hành động ngôn ngữ của nhân vật. Điều đáng tiếc là nếu như tác giả kết hợp nhuần nhuyễn việc thể hiện tính cách nhân vật qua việc mô tả tâm lý với việc khắc họa bằng hành động, ngoại hình - điều mà trong vài truyện ngắn trước đây Triều Nguyên đã thành công ít nhiều thì tác phẩm của anh sẽ thuyết phục bạn đọc hơn.
Qua tập truyện ngắn đầu tay của Triều Nguyên - dù không có những truyện thật đặc sắc, nổi bật - người đọc có cơ sở để tin rằng: Với lòng say mê sáng tạo và với một quan niệm đầy tâm huyết gửi gắm "Tôi vốn coi chuyện văn chương là thiêng liêng nhất đời. Dù biết chắc chắn trước mắt cũng như lâu dài, nó không mang lại cơm áo cho mình tôi vẫn căm ghét kẻ chà đạp, phỉ báng nó" (Tôi là người sung sướng) Triều Nguyên sẽ đáp ứng được điều mong đợi của bạn đọc.
V.H.H
(TCSH49/05&6-1992)
------------------------
(*) “Tháng bảy không mưa”, tập truyện ngắn của Triều Nguyên, Hội VHNT Thừa Thiên- Huế. 1991
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
THỤY KHỞI
Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.
Hoàng Minh Tường
Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).
LÊ HUỲNH LÂM
Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.
HOÀNG ANH
(Bài viết này, là nén hương lòng tôi thắp dâng lên linh hồn của anh Đơn Phương thân quý!)
LGT: Cho đến nay văn học Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn đang là một hấp lực đối với người sáng tạo lẫn phê bình, nhất là giới viết trẻ. Sông Hương đã từng có một chuyên đề sớm nhất về vấn đề này vào số tháng 7/2011.
BÙI VIỆT THẮNG
Bản thảo tập truyện Nhiệt đới gió mùa tôi nhận được từ nhà văn Lê Minh Khuê qua email cá nhân, in ra 115 trang A4, co chữ 12, đọc phải hết sức chăm chú vì mắt mũi có phần kém sút khi tuổi đã ngoại lục tuần.
VĂN GIÁ
NHÀ VĂN VÕ THỊ XUÂN HÀ - Sống và làm việc tại Hà Nội. Quê gốc: Vỹ Dạ, Huế. Hiện là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 8). Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, Tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm (khoa Toán Lý). Tốt nghiệp thủ khoa khóa 4 Trường viết văn Nguyễn Du.
HỒNG NHU
Tạp chí Thơ số tháng 10 năm 2012 in bài “Hiểu và dịch bài thơ Đường Khúc Lương Châu như thế nào” của Phạm Thức. Tôi liền đọc ngay vì nói chung về Đường thi hàng nghìn bài nổi tiếng và nói riêng về tác giả là một nhà thơ tài danh: Vương Hàn.
THƯ PHÙNG QUÁN GỬI TÔ NHUẬN VỸ
Sự thay đổi, tiến bộ của Việt Nam sau năm 1975 là to lớn và rõ rệt, đặc biệt trên lãnh vực đặc thù như Văn học, nếu nhìn lại những “vết sẹo” của một thời quá khứ để lại trên cơ thể nền Văn học, mà tiêu biểu là đối với nhà thơ Phùng Quán.
GS. VŨ KHIÊU
Lần này Vạn Lộc cho in trên 72 bài thơ Đường luật. Đối với Vạn Lộc, đây là một sự táo bạo và cũng là một thử thách với chính tài năng của mình.
TRẦN NGHI HOÀNG
“mảnh|mảnh|mảnh”, chỉ nhìn tập thơ, chưa cần đọc gì hết, đã thấy là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình với bố cục táo bạo và vững vàng. Không offset bảy màu, không chữ nổi giấy tráng glassy, chỉ đơn giản hai màu đen và trắng. Đơn giản, nhưng rất công phu với khuôn khổ 12,5 x 26.
ĐOÀN TRỌNG HUY*
Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách Mạng và Đường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.
PHẠM PHÚ PHONG - HOÀNG DŨNG
Trang viết đầu tay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời của người cầm bút. Đó là điểm mốc, là bước chân đầu tiên đặt lên con đường hun hút xa, đầy lo ngại nhưng cũng hết sức hấp dẫn.
NGÔ MINH
Tôi gọi là “thầy” vì thầy Lương Duy Cán (Hà Nhật) dạy văn tôi hồi nhỏ học cấp 3 ở trường huyện. Tôi viết Chuyện thầy Hà Nhật làm thơ vì thầy vừa ra mắt tập thơ đầu tay Đá sỏi trên đường(*) khi thầy đã U80.
NGUYỄN QUANG HÀ
Vợ một người bạn làm thơ của chúng tôi, trong bữa anh em tụ tập ở nhà chị "lai rai" với nhau, chị cũng góp chuyện, vui vẻ và rất thật thà.
BÙI VIỆT THẮNG
(Đọc Hồng Nhu - Tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn, 2011)
TRẦN THÙY MAI
(Đọc Đi tìm ngọn núi thiêng của Nguyễn Văn Dũng, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2012)
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc “Phạm Quỳnh, một góc nhìn” Tập 2. NXB Công an nhân dân, 2012)
LÊ HUỲNH LÂM
Những buổi chiều tôi thường nhìn lá trước sân nhà cuốn bay theo gió. Chợt nghĩ, cái lẽ tự nhiên đó đã đẩy đưa một con người vào khúc quành của cuộc sống. Bởi tâm hồn ông quá nhạy cảm trước mọi sự, và ông có một lối diễn đạt chân thật, bình dị, gần gũi mà rất chua chát.