Nghệ thuật thư pháp là một bộ phận thuộc hình thái “văn hóa thư pháp” của người Việt

10:18 20/05/2010
Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000

Bài thơ “Học đánh cờ” của Bác Hồ của nhà thư pháp Lỗ Nguyên (TQ) - Ảnh: vtc.vn


PV:
Trong mấy năm trở lại đây, ở nước ta thỉnh thoảng xuất hiện một vài cuộc triển lãm nghệ thuật thư pháp. Vậy nghệ thuật thư pháp là gì, thưa anh?

Ô. Nguyễn Việt (N. V): Trước hết tôi là nghệ sỹ thích thư pháp chứ không phải “dân” chuyên nghiệp thư pháp.

Gần đây thấy trên truyền hình đưa nhiều tin hoạt động thư pháp. Theo tôi, đó là dấu hiệu đáng mừng, bởi “thú chơi” cao cấp này, không có văn hóa là không “chơi” nổi đâu. Do đó, nên vận động khuyến khích để trở thành phong trào sâu rộng trong quần chúng.

PV: Xin anh cho biết nghệ thuật thư pháp có ảnh hưởng như thế nào trong văn hóa người Việt?

N. V: Lịch sử phát triển văn hóa của dân tộc ta có một quãng đệm, một lớp đệm khá dày, đó là tầng văn hóa Hán, chữ Hán đã chiếm một vị trí không nhỏ trong xã hội và trong đời sống của nhân dân ta suốt cả hàng nghìn năm Bắc thuộc và gần một thiên niên kỷ tiếp nối. Do đó, (thư pháp) không thể nói: sự ảnh hưởng như thế nào trong văn hóa người Việt, mà phải coi đó là một bộ phận thuộc hình thái “văn hóa thư pháp” của người Việt.

PV: Anh có thể nói một vài điều về mối quan hệ giữa thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghệ thuật thư pháp?

N. V: Tập thơ “Nhật ký trong tù” là bộ thi ca khá đồ sộ của Bác Hồ, được sáng tác vào một thời điểm lịch sử gay gắt nhất và quãng đời hoạt động gian truân nhất trong những ngày tháng Bác tìm cách giải thoát cảnh nô lệ, mất nước để giải phóng cho dân tộc.

Khi ngồi trong tù sáng tác bộ thi ca này, Bác không nghĩ sẽ có một ngày những bài thơ của mình đã mang lại nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả thư pháp, và nhiều bài thơ trong ấy còn là những đề tài làm nảy sinh cấu tứ cho loại hình nghệ thuật thư họa của bộ sưu tập nghệ thuật thư pháp “Nhật ký trong tù” lần này.

Qua bộ sưu tập nghệ thuật thư pháp với thơ “Nhật ký trong tù” đang được triển lãm tại Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế, không thể không thừa nhận về sự nắm bắt và sự nhạy cảm tinh tế của các nhà thư pháp Trung Quốc, các vị không chỉ cảm nhận về phần thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà các vị đã còn đi sâu nghiên cứu để hiểu cả thân thế sự nghiệp của Người, nên mỗi tác phẩm thư pháp mà các vị thể hiện điều toát lên những nét riêng, những đặc điểm riêng do mỗi tác phẩm.

Có thể thấy được như ở chùm thơ bộ ba “Học đánh cờ”.

Xem ra, cả ba bài thơ trong bộ “Học đánh cờ” đã được thể hiện với những quy tắc cơ bản đúng với đặc trưng thư pháp và thấy rõ hơn cả là khuynh hướng nghệ thuật cùng quan niệm, thẩm mỹ của mỗi tác giả được biểu hiện ở cấu trúc tác phẩm, ở phong cách diễn tả. Và thế, người xem thấy rõ hơn, rằng sự cảm hứng của loại hình nghệ thuật hình tượng này nó cho phép nhà thư pháp được bung mở và sự phóng khoáng cảm xúc đã nhân, chuyển sang hình thái nghệ thuật thư họa hình thái này thường cao sang, hoa mỹ và gây ấn tượng mạnh tới người xem mà ở bài:

            Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi
            Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài
            Tấn công thoái thủ nhanh như chớp
            Chân lẻ tài cao ắt thắng người.

Trước hết, tác giả đã có một bố cục độc đáo, mảng chữ đậm, to, chiếm tới một nửa trang họa mà “nét nhấn” lại được rải ra chảy thành một nét dài nơi chính giữa. Ân tượng mạnh tạo cho người xem một sự thỏa mãn về mỹ cảm. Và điều đặc biệt là nếu ai đã đọc được thì dường như đến nín thở để đọc một lèo cho tới khi “bắt được” câu:

            Tấn công, thoái thủ nhanh như chớp

để rồi thoải mái gặp câu:

            Chân lẻ tài cao ắt thắng người.

Thật là một bút pháp điêu luyện, đầy sáng tạo.

Cũng ở bản thư họa này tác giả dùng đến bốn triện đỏ nhưng người xem đã rất thích thú khi gặp một dấu hiệu triện đỏ buông bên chữ trì nằm lơ lửng ở quãng giữa lưng chừng bản thư họa. Không, không phải ngẫu nhiên. Chắc chắn đây là một nguyên tắc của thư pháp, nó có phép tắc rõ ràng của việc sử dụng con triện đỏ đó... Có điều đáng nói: phải là tay lão luyện như thế nào đó trong nghề chơi chữ mới biết thả điểm đỏ ấy làm cho bố cục trở nên hoàn chỉnh và tuyệt vời đến như thế.

Ở bài thứ hai:

            Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ
            Kiên quyết không ngừng thế tiến công
            Lạc nước hai xe đành bỏ phí
            Gặp thời, một tốt cũng thành công

Có thể gọi đây là một tác phẩm “hội họa bằng chữ” mà người Trung Hoa từ cổ xưa đã quen gọi là Thư họa. Vượt ra những khái niệm thông thường, tác phẩm này mang một cấu trúc truyền thống mỹ thuật phương Đông. Ở đây cái hay của thi ca được hòa quyện vào cái đẹp của thi họa. Đối lại, cái đẹp của thi họa đã trực tiếp truyền cảm cho người xưa để mở ra, để sáng ra trong mỗi câu, mỗi ý của thi ca. Người không biết đọc thì lấy cái đẹp mà rung cảm mà cảm thụ về thẩm mỹ.

Còn như bài thứ ba:

            Vốn trước hai bên ngang thế lực
            Mà sau thắng lợi một bên giành
            Tấn công phòng thủ không sơ hở
            Đại tướng anh hùng mới xứng danh


Đến đây, người xem đã có thể nhận thấy nghệ thuật thư pháp đóng một vai trò điều phối thẩm mỹ. Cái đẹp vốn tự nó, song qua thư pháp, cái đẹp từ dạng này mà có thể đồng, chuyển sang cái đẹp ở dạng kia để vươn tới đỉnh cao của sự hoàn mỹ. Nên những người am hiểu Hán tự đã không thể dửng dưng với cái “lối” nhập đề của bức thư họa thứ ba này, bởi tác giả dùng bút lông của mình để như “khắc” vào giấy trắng bốn đại từ: Vận- Trù- Vô- Lậu. Đây là bốn câu ở dòng thứ ba của bài thơ Bác viết bằng chữ Hán:

            “Công thủ vận trù vô lậu trước”
            “Tài xứng anh dũng đại tướng quân”

Dịch nghĩa:

            “Tấn công phòng thủ không sơ hở
            “Đại tướng anh hùng mới xứng danh”

Ở bức thư họa này, thư pháp gia đã khẳng định chủ đề cho tác phẩm thư họa của mình đã, rồi bằng bút pháp tinh tế sắc sảo, nhà thư pháp đã dẫn người xem về một chốn riêng, rất riêng theo những con chữ của mình.

Đây là một “kiểu chơi” trí tuệ đầy cá tính.

Các nhà thư pháp Trung Hoa đã thật tế nhị, hay đúng hơn, họ đã ý thức chọn một số bài thơ cho loại hình thư họa từ trong bộ thi ca “Nhật ký trong tù”, một phần là cảm hứng, một phần cũng là thể hiện có tính mẫu mực cho bộ sưu tập của chúng ta. Song có thể coi một số tác phẩm thư họa lần này là những đôi cánh chắp lại để nâng bổng bộ thi ca đồ sộ nhất về thư pháp từ xưa đến nay mà, sau đó bằng thủ pháp, các kiểu loại chữ, họ đã tạo nên một giá trị “văn hóa thư pháp” mà không hề ảnh hưởng tới nội dung thi ca.

Có những bài người xem vừa kịp nhận bắt con chữ thì đồng thời đã cảm như đâu đó đang có sự lay động của một cơn gió sắp ùa tràn tới quanh mình, như khi gặp bài Hoàng hôn:

            Gió sắc tựa gươm mài đá núi
            Rét như dùi nhọn chích cạnh cây

Tác giả đã dùng bút lông mà tạo nên “phong” chữ phong chỉ một nét đã uốn thành “luồng gió chữ” ù ù chuyển động... Rồi trận gió lại lắng dần, ngớt dần rồi lặng hẳn, nhường cho người xem kịp lắng nghe:

            Chùa xa chuông giục người nhanh bước
            Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay

Cũng như bài Hoàng hôn, bài Ghe mới thật là sống động và, phải nói, ý nghĩa của hai chữ tượng hình thì đây là tiêu biểu:

            Đầy mình đỏ tím như hoa gấm
            Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn

Vừa nhìn vào bài thơ, lạ thật, người xem đã cảm thấy nhột nhoạt như có cái gì đó đang bò, đang rung rúc khắp người. Những người hiểu Hán văn đều nhận ra chữ Mãn đã được tác giả chú ý diễn tả những nét đậm đặc, to tát, cộng với ba chấm thủy được thể hiện quá sinh động, nhìn vào, chẳng khác lũ rận đang lổm ngổm... Trong khi đó, chữ tiếp theo là chữ Tuân, thì ôi! sao mà còm cõi, teo tét... người xem có cảm giác cái lũ rận đang lúc nhúc như thế mà bâu trên một thân hình đét héo của người tù, rõ là, thân tù ấy phải có lực biết chừng nào!

Nhưng rồi bố cục ở phần sau đã được mở thoáng, cái cảm giác khó chịu, ngứa ngáy bớt dần, dường như hòa trong sự đồng cảm cùng thi nhân:

            Mặc gấm bạn tù đều khách quý
            Gẩy đàn trong ngọc thấy tri âm

Nhìn vào nhiều bài khác nữa, các thư pháp Trung Hoa, chủ xướng và chủ trì là thư pháp gia Lỗ Nguyên với tấm lòng kính yêu tác giả “Nhật ký trong tù” mà đã đem hết tài nghệ của mọi người hợp lại làm nên bộ sưu tập về thư pháp độc nhất vô nhị hiện nay.

LÊ THANH HƯƠNG thực hiện
(140/10-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)