HÀ KHÁNH LINH
Người xưa nói: Cung kiếm là tâm, là cánh tay vươn dài của võ sĩ; Bút là tâm nối dài của Văn Sĩ. Khi đọc tập truyện ngắn UẨN KHUẤT của Kim Quý, tôi nghĩ phải chăng khi không thể tiếp tục hóa thân thành những nhân vật trên sân khấu, nghệ sĩ ưu tú Kim Quý đã cầm bút để tiếp tục thể hiện những khát vọng cao đẹp của mình.
135 trang sách với hai mươi truyện ngắn (Nxb. Hội Nhà văn, 2012), Kim Quý đã tỏ ra chững chạc và có tay nghề. Truyện của Kim Quý đề cập nhiều lãnh vực của cuộc sống xã hội đương đại và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, đặc biệt là mảng đề tài nghệ thuật sân khấu. Những trang văn đầy ắp tình đời, tình người, ngồn ngộn những sự kiện và nhân vật sân khấu với cuộc đời được Kim Quý khắc họa tỉa gọt rất khéo léo, rất sinh động, rất chân thật và đầy biểu cảm. “Nếu biết trước nghề diễn viên sân khấu cực khổ thế này thì tớ đã chọn nghề khác như họa sĩ, viết văn chẳng hạn. Một mình một bút, ngày mai chết, hôm nay vẫn viết được. Càng già viết càng hay, đâu như mình mới ba mươi lăm tuổi đã phải giải nghệ. Cha ông nói: Thầy già, con hát trẻ, không sai” (T.11). Lời của nhân vật nói lên tâm trạng của những “con hát” phải rời sân khấu ở tuổi mà tài năng vừa chạm đến đỉnh cao, sắc đẹp cũng vừa độ chín - người nghệ sĩ tự tin khẳng định vị trí của mình trong xã hội, giữa cuộc đời, trong lòng khán thính giả. Tất nhiên cũng có một số nghệ sĩ có điều kiện tiếp tục sự nghiệp của mình cho đến phút cuối của cuộc đời. Số đông nghệ sĩ khi rời sân khấu cảm thấy hụt hẫng và bị dòng đời cuốn đi, theo nhiều ngã rẽ, nhiều khúc ngoặt khác nhau, họ luôn mang theo ký ức về những vai diễn của mình, vì “mỗi vai diễn mới là một sự khám phá tận cùng nỗi đau và hạnh phúc của nhân vật” (T.16). Những con người đã trót lỡ mang lấy nghiệp - coi sân khấu như thánh đường. Họ chỉ có một cuộc đời, nhưng họ đã hóa thân sống rất nhiều cuộc đời với muôn vàn số phận khác nhau. Họ khóc cười, yêu ghét, hờn giận, cay đắng, tủi hờn, đau khổ và hạnh phúc… “Sân khấu là máu thịt, là đời sống tâm linh, là thánh đường của chúng tôi - những tu sĩ chuyên tâm không lấm bụi trần” (T.113). Tuy vậy, “những tu sĩ không lấm bụi trần” nầy khi còn ở “thánh đường sân khấu” cũng gặp rất nhiều khó khăn, mà nếu nội lực không đủ thâm hậu thì rất khó thắng vượt! Một trong những khó khăn đó nhiều khi chỉ là sự hâm mộ thái quá từ phía khán thính giả. Những nhân vật nữ trong truyện là những nghệ sĩ tài hoa xinh đẹp hầu hết đều gặp phải vấn nạn - những người nam hâm mộ rồi đem lòng yêu, yêu điên cuồng, yêu quay quắt. Vấn đề càng gay gắt hơn khi những nữ diễn viên nầy đã xây dựng gia đình. Gay gắt hơn một cấp độ nữa khi người hâm mộ, người yêu điên cuồng, yêu quay ắt kia là bạn diễn! “Cho em được ôm chị một lần trong đời thực chị nhé (…). Đêm ấy tôi không ngủ, một thứ tình cảm gần như là tình yêu đang trỗi dậy trong trái tim non nớt của Đức và lòng tôi cũng thấy xốn xang (…). Những tình cảm tinh khiết được chắt lọc trong cuộc đời chúng tôi dành hết cho vai diễn” (T.113). Và cuối cùng là bi kịch của đời nghệ sĩ - có lẽ lớn hơn cả những bi kịch trong các vở diễn cộng lại - là khi khán giả thờ thơ với sân khấu! Những vở diễn mang tính nghệ thuật cao, đầy chất thi ca đành phải xếp lại! Vì miếng cơm manh áo nên một số nghệ sĩ đã tự biến mình thành những người thợ diễn gây cười, gây khóc, rẻ rúng, gượng gạo và dung tục!...
“Trái tim tôi quằn quại. Lòng tin bị phản bội, thánh đường tôi tôn thờ không còn nữa. Tôi mất phương hướng, tôi gục ngã…” (T.118).
Một đề tài nữa, tuy không mới nhưng chưa bao giờ cũ - bởi vì chưa bao giờ khai thác hết ngọn nguồn, đó là LÒNG MẸ. Từ trong kháng chiến cứu nước cho đến những ngày hòa bình xây dựng đất nước, người mẹ Việt Nam suốt một đời thức khuya dậy sớm tần tảo chắt chiu dành dụm, lặng lẽ chịu đựng muôn vàn gian khổ hy sinh nuôi con khôn lớn, nhưng thời nay thói bất hiếu không còn là một bộ phận cá biệt; những chàng trai cô gái ích kỷ chưa bao giờ nghĩ cho mẹ một lần! Vậy nên nước mắt mẹ đêm đêm vẫn chan ướt mặt - “Sống cùng nhau nhưng càng ngày ta càng cảm thấy mình thừa thãi, xa lạ trong chính ngôi nhà của mình (…). Làm sao quên nơi ta đặt cược cả cuộc đời với bao niềm tin, tình yêu, hy vọng…” (T.85). Thói vô cảm tàn nhẫn đối với đấng sinh thành có lúc còn dấn thêm một bước nữa là tước đoạt cả điều kiện sống tối thiểu cuối cùng của mẹ! “Bà sống trong thiếu thốn, bệnh tật với trái tim tan nát. Con trai bà không còn biết xấu hổ, không còn biết yêu thương” (Nỗi đau người mẹ - T.90). Tuy nhiên còn đâu đó trong tận cùng sâu thẳm của trái tim nhân loại sự biết xấu hổ, biết ân hận, dù đã muộn. “Mẹ ơi đừng tha thứ cho con. Con không xứng đáng, không xứng đáng! (…). Ta không còn mẹ, không còn mẹ nữa! Chẳng có nỗi đau nào lớn hơn!...” (T.124).
Những thập niên 70 - 80 của thế kỷ trước, khán giả đã quen thân với một Kim Quý tài hoa xinh đẹp trên sân khấu kịch nói, giờ đây độc giả gặp một Kim Quý - nhà văn trẻ đang hăm hở vào nghề với bút lực dồi dào và nghiêm cẩn. Thành công của nghệ sĩ Kim Quý trước đây trong nghệ thuật biểu diễn cũng như trên lãnh vực sáng tác hiện nay, không thể không nhắc đến đạo diễn nghệ sĩ nhân dân Xuân Đàm - người bạn đời mà Kim Quý luôn coi là người anh cả, người con út được cưng chiều nhất, người tình trong mộng, và là người thầy.
H.K.L
(SDB12/03-14)
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.
HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)
HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)
NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).
NGUYỄN THANH MỪNG Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.
VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.