Ngày Tết nói chuyện chơi ở Huế

15:44 01/08/2008
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

 một nơi từng được tán tụng “mặt đất thì non sông tươi đẹp, biển cả thì sóng nước mênh mông..., đàn ông khá cương cường, đàn bà hơi mềm mại, trai thì trọng đức dũng cảm tài lương, gái thì quý nết đoan trang cần kiệm...”, lại được tiếp nhận những tinh hoa của đất nước tụ hội về bởi vị thế của một kinh đô, xứ Huế, trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XVI đến đầu XX, xứng đáng là chốn đô hội của cả nước. Việc nhà Nguyễn chọn Huế để định đô trong gần 1,5 thế kỷ đã làm nảy sinh nơi đây lớp người thượng kinh và theo đó là một lối sống kinh kỳ. Điều này góp phần tạo nên những nét đặc sắc trong lối sống, cách ứng xử, cũng như trong việc thưởng ngoạn và tiêu khiển của người dân xứ Huế.
 Sự tồn tại và phát triển các trò tiêu khiển ở xứ Huế bắt nguồn từ sự du nhập các trò giải trí và thú tiêu khiển truyền thống của cư dân đồng bằng Bắc Bộ rồi cải biên cho phù hợp với điều kiện địa lý, môi trường và hoàn cảnh lịch sử ở vùng đất mới. Nhiều trò chơi dân gian của người dân Đại Việt xưa, đã theo bước chân của những lớp dân tiến, có mặt ở Thừa Thiên Huế ngay từ khi mảnh đất này còn là “Ô châu ác địa”. Trong giai đoạn đầu, những trò tiêu khiển ấy vẫn mang đậm dấu ấn từ những trò vui của cư dân châu thổ sông Hồng. Đó là những trò chơi gắn với các lễ hội dân gian, được nhà nước đứng ra tổ chức để mua vui cho thiên hạ trong các dịp lễ lượt như đua ghe, đấu vật, đu tiên... Điều này thể hiện khá rõ qua một đoạn ghi chép của Nguyễn Khoa Chiêm trong sách Nam triều công nghiệp diễn chí: “Lại kể năm Cảnh Trị thứ 10, Nhâm tý, tháng 2 (đúng ra là năm Dương Đức thứ nhất, 1672) chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) nhàn hạ, triệu trai gái xã Hạ Lan tới trước gác Quyển Bồng, bày cuộc chơi đùa làm vui: đánh cờ người, đá cầu, xích đu. Có thể nói là một thắng hội. Khi ấy các quan liêu, dân bách tính trai già gái trẻ, dắt con ôm cháu, cùng tới xem chơi, không thể đếm xiết”.
 Về sau, nhiều thú vui xuất xứ từ nơi thôn dã, được tầng lớp trên trong xã hội mới tiếp nhận và cải biên cho phù hợp với lối sống quyền quý của họ. Từ đó tạo nên những trò giải trí và tiêu khiển theo lối Huế, được đánh giá là phong phú, độc đáo và mang sắc thái riêng, khi so sánh với những trò giải trí và thú tiêu khiển ở các vùng khác của Việt . Mặt khác, tầng lớp trên trong xã hội cũng là những người khởi xướng các trò giải trí và thú tiêu khiển mới như: trò chơi đầu hồ, thưởng thức ca nhạc cung đình, thả thơ, uống trà... Giới quý tộc và quan lại ở cố đô xưa đã học hỏi, bắt chước những trò chơi có trong sách vở viết về ở đời sống cung đình Trung Hoa, để phục vụ cho nhu cầu giải trí của giai cấp mình. Theo thời gian, những trò này đã vượt khỏi chốn cung cấm, lan ra phố phường và thôn xóm ngoại thành, được tầng lớp bình dân tiếp nhận, rồi cải biên hoặc bổ sung một vài chi tiết cho phù hợp với địa vị và lối sống của họ. Cũng có những thú vui không rõ do ai khởi xướng nhưng lại được người Huế, từ sang đến hèn, chấp nhận thưởng thức. Có trò phổ biến công khai như chơi hoa kiểng, non bộ, nuôi chim...; nhưng cũng có trò sôi động trong sự lặng lẽ như thú ngủ đò hay các trò cờ bạc đỏ đen...
 Đến thời thuộc Pháp, nhiều trò giải trí có nguồn gốc châu Âu, được du nhập vào Thừa Thiên Huế như: domino, billard, bài tây..., cùng tồn tại với những trò chơi có từ trước. Bên cạnh đó, vài trò chơi truyền thống cũng có những thay đổi cho phù hợp xu thế của thời đại. Ví dụ trò thả thơ, thay vì dùng thơ chữ Hán đời Đường, Tống, Minh, người ta chuyển sang dùng thơ chữ Nôm của Trần Tế Xương, Tản Đà... để thả thơ; hay như trò tài bàn, mạt chược, vốn du nhập từ Trung Quốc, nguyên thuỷ chỉ có 136 quân cờ, về sau phát sinh thêm các quân bài mai-lan-cúc-trúc-xuân-hạ-thu-đông-tổng-đồng-vạn-sách-hoa-nguyên-hỷ-hạp, nâng số quân cờ lên 152 quân.
 Thú tiêu khiển ở Thừa Thiên Huế luôn có tính hai mặt: bình dân và bác học, dân dã và cung đình. Chẳng hạn trong trò thả diều, con diều vốn xuất phát từ trò chơi giản đơn của đám con nít nơi thôn quê, được người lớn phát triển thành con diều có hình dáng phức tạp hơn. Cuối cùng, nó được lớp người thượng kinh biến thành những nhân vật của bộ môn "múa rối trên không", dựa trên trong các tích tuồng xưa, lộng lẫy màu sắc. Hay như trong bộ môn ca Huế, có khi ca từ bắt nguồn từ những bài ca dao, những bài vè trong dân gian, nhưng cũng có những làn điệu, những khúc ca có ca từ là những bài thơ do các thi sĩ chuyên nghiệp, hay các bậc thức giả sáng tác như bài Phẩm tiết, do công chúa Mai Am sáng tác, bài Tứ đại cảnh, do vua Tự Đức đặt ra. Có nơi, có lúc mặt này trội hơn mặt kia, nhưng rất khó tách bạch rõ ràng. Ngược lại, các mặt này thường đan xen, bổ sung cho nhau, tạo nên những nét đặc thù trong các trò giải trí ở Huế.
 Những thú vui ở Huế, ngoài mục đích tiêu khiển, giải trí, còn nhằm để khoa trương tài nghệ, óc thẩm mỹ tinh tế, sự tinh xảo, khéo léo và cả tri thức, học vấn của người dự cuộc. Để thỏa mãn thú đỏ đen hay thử vận hên xui, ngoài những trò cờ bạc diễn ra trong các sòng tổ tôm, tứ sắc..., người Huế còn tìm đến các trò thả thơ, đố chữ trên lồng đèn, nơi mà sự uyên bác trong học vấn quyết định sự thắng thua chứ không phải là tính sát phạt. Tương tự, người ta tìm đến các hội bài chòi, bài thai là để được thưởng thức những câu hò, giọng hát, để đắm mình trong không khí rộn ràng của cuộc vui hơn là để thử vận may rủi. Ngay như cái thú ngủ đò, vốn có nhiều điều tiếng, nhưng không phải ai xuống đò cũng chỉ để "chơi hoa thưởng nguyệt". Một dịp xuống đò đi dọc dòng Hương là một dịp tìm hiểu lịch sử và những giai thoại của dòng sông, của những vùng đất ven đôi bờ sông, cũng là một dịp biết thêm những khoảng sáng tối trong cuộc đời của người kỹ nữ qua những chuyện canh trường của nàng, thứ đến mới là chuyện nếm trải hương tình trong một khung cảnh ngập tràn kỳ thú của trăng nước Hương Giang.
 Một đặc điểm khác trong các trò tiêu khiển ở Thừa Thiên Huế là dường như có một sự phân định vô hình trong việc tổ chức và thưởng ngoạn, giữa những lớp người có địa vị khác nhau trong xã hội: Đầu hồ là một trò chơi phổ biến trong cung vua, phủ chúa, nhưng không thấy lan truyền trong dân gian. Người ta cũng chỉ thấy trò thả thơ, đố thơ xảy ra nơi các vương phủ và thành phần tham dự đều là những bậc phong lưu, có học vấn chứ không phải là những tay trọc phú lắm tiền ít chữ. Cũng chưa bao giờ có một quan chức nào, dù là võ quan, so tài trong các sới vật đầu năm ở các hội làng, cho dù họ là người đã từng tỉ thí trong các kỳ thi võ do triều đình tổ chức. Điều này là hệ quả của sự khác biệt địa vị, học vấn và tình hình kinh tế của từng bộ phận dân cư trong xã hội.
 Xứ Huế có những thú vui dành cho đám đông như trò đua ghe, thả diều, đấu vật; song cũng có nhiều thú giải khuây chỉ dành cho một nhóm người, thậm chí một người, như thú uống trà, đánh cờ hay sưu tầm cổ ngoạn. Có những thú vui nhằm để phô diễn sức mạnh cơ bắp như đua ghe, đấu vật; có thú vui dùng trí như đánh cờ, hay khoe tài học vấn như thả thơ, đố thơ; có thú vui thể hiện sự khéo léo như chơi đầu hồ, hay khoe sự sáng tạo như làm diều và thả diều; nhưng có thú vui lại thể hiện một ước mơ về học vấn cho bản thân và gia đình như trò đổ xăm hường, hay thể hiện một khát vọng liên lạc giữa cõi dương với cõi âm, giữa hư với thực như trò cầu tiên.
 
Thú vui xứ Huế không chỉ phong phú về dạng thức, loại hình mà còn hợp thời, hợp cảnh. Dương Văn An trong Ô châu cận lục từng viết: "Xuân sang thì mở hội đua thuyền với nhiều trai thanh gái lịch, hạ đến thì bày cuộc viếng thăm với nhiều chốn múa nơi ca". Không ai thả diều hay du thuyền trên sông Hương trong vào những ngày mưa dầm gió bấc, cũng như các cuộc trà chỉ thực sự mang đến cho ẩm khách cảm giác khinh khoái trong những ngày đông giá rét, chứ không phải trong những trưa hè oi bức. Thiên nhiên và thời tiết vừa giúp vào việc sản sinh ra các loại hình giải trí ở Huế, đồng thời, vừa ảnh hưởng trực tiếp đến thời điểm diễn ra các cuộc vui ấy.
 Có một cảm nhận khác khi tìm hiểu về thú tiêu khiển ở Thừa Thiên Huế là có nhiều trò giải trí gắn liền với những dòng sông. Đó là dòng Hương Giang ở Huế; là sông Bồ Điền ở Quảng Điền, là dòng Ô Lâu ở Phong Điền, là vùng đầm phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô...ở vùng duyên hải phía đông. Những trò đua ghe, đua trãi, các cuộc vui trong các cuộc lễ cầu ngư, thú đi câu, ca Huế trên sông, ngủ đò..., đều gắn liền với sông nước và cả những trò vui, tuy trên cạn, nhưng lại có gốc gác gắn bó với sông nước như hát tập chèo, hò bả trạo... Ngay như thú thả diều cũng thế. Đừng tưởng cánh diều bay lượn trên bầu trời kia là không có quan hệ gì với sóng nước của những dòng sông xứ Huế. Vị trí được các tay chơi diều ưa thích là những bãi đất ven sông, vì ở những nơi này mới có một khoảng không thoáng đãng để nâng bổng cánh diều. Dòng sông xanh, bầu trời xanh và cánh diều đủ màu sắc đang vi vu giữa hai tấm phông xanh tự nhiên kia sẽ trở nên lộng lẫy hơn, quyến rũ hơn. Vì thế mà trong những trưa hè cháy bỏng, ngang qua cầu Trường Tiền hay cầu Phú Xuân, người ta thường thấy những cánh diều chao lượn trên bầu trời, in bóng xuống dòng Hương trong xanh. Sông Hương đã đọng lại trong tâm thức người dân Huế một tình cảm dịu dàng, quyến rũ, thì cũng in dấu lên những trò tiêu khiển xứ Huế như nguồn cội của niềm hứng khởi và lạc thú, mà thiếu nó, hẳn những thú vui của miền đất này sẽ không trọn vẹn và phong phú đến vậy.
 Các trò tiêu khiển ở Thừa Thiên Huế có thể tạm phân thành ba nhóm nhỏ, dựa trên quy mô tổ chức và số người dự cuộc:
 - Những trò giải trí mang tính cộng đồng như các trò đua ghe, vật võ, đu tiên...
 
- Những trò giải trí và tiêu khiển mang tính hội nhóm như thú ngâm vịnh, đối họa thi văn, thưởng thức ca nhạc Huế, thú uống trà, các trò chơi thả thơ, đề thơ trên lồng đèn, đổ xăm hường, đầu hồ, hay các trò cờ bạc khác như tứ sắc, bài xẹp; tổ tôm, kiệu, tài bàn, mạt chược...
 
- Những trò giải trí và tiêu khiển mang tính cá nhân như thú chơi non bộ, vườn đá: chơi hoa và cây kiểng, thú ngủ đò...
Tuy nhiên, sự phân định trên chỉ có tính tương đối vì có những thú
vui xếp vào nhóm này hay nhóm kia đều được. Ví dụ uống trà có thể là thú tiêu khiển cá nhân nhưng khi có một nhóm người thường xuyên tụ họp để thưởng trà, bình thơ thì thú vui này đã mang tính tập thể, hội nhóm. Hay như khi chơi đầu hồ, ngoài mục đích thư giản, đây còn là dịp để người chơi tập luyện tính kiên trì, khéo léo, nhưng khi có hai hay ba người cùng tham gia thì trò này đã mang tính hội nhóm và cần phải có luật chơi để phân định thắng thua.
 Tiêu khiển và sáng tạo ra các trò tiêu khiển là chuyện phổ biến đối với các cộng đồng cư dân trên thế giới. Mỗi vùng đất, mỗi cộng đồng cư dân có một lối tiêu khiển riêng và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Thú tiêu khiển ở Huế cũng thế. Và đó chính là một trong những bộ phận tổ thành di sản văn hóa Huế. 
T.Đ.A.S

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...