KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)
Một số nhà thơ trong phong trào Thơ Mới 1932, Từ trái sang phải:
Hàng đầu : Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ, Huy Cận, Tế Hanh. Hàng thứ 2 : Hoài Chân, Xuân Tâm Hàng thứ 3 : Nguyễn Xuân Huy, Mộng Huyền, Vũ Đình Liên - (Nguyễn Khắc Thùy - nhạc sĩ) Hàng sau cùng : Phan Khắc Khoan - (Hà Minh Đức - nhà LLPB) |
LTS: Thơ của tác giả tự chọn kèm theo lời giải đáp câu hỏi: "Làm thế nào để có thơ hay". 131 nhà thơ hội viên Hội nhà văn Việt Nam, 131 lời tác giả, 131 bài thơ. Chắc hẳn những người làm sách cũng như bạn đọc yêu thơ, sành thơ trong cả nước không coi tập sách này là đủ đầy, là khuôn mẫu, càng không thể coi là tinh hoa hoặc những gì tương tự. Song điều này thì chắc hẳn : ngọn sóng tao đàn trào dâng, những dòng tâm huyết tuôn chảy, trăm trái tim Người Thơ, trăm nhịp đập: cuồng nhiệt, thâm trầm, chói chang, lặng lẽ, u tịch, chân chỉ, ảo huyền...
Nhóm Khuê Văn đã làm một việc không chỉ ý nghĩa mà còn đầy trách nhiệm, nếu không muốn nói là khai thông: rút chốt cánh cửa thơ, sau khi gióng lên hồi trống lễ. Và thế là... xin mời quý bạn!(*).
VĂN CAO
Đó là hỏi đến bí mật của sáng tạo... Trong tất cả những phát ngôn về mỹ học trước đây, có thể rút ra những câu giải đáp... Đây là sự tiếp nối, tiếp nối những cái hay thời trước, nói cách khác là mô phỏng - mô phỏng đi tới chỗ nhập thần đến không còn biết là của ai. Aragon có khi dùng hẳn câu thơ của người khác như Éluard nhưng đều có ghi chú. Sự mô phỏng này là sự biến đổi trong cái không biến đổi như ở cấu trúc luận - variation des invariations. Mỗi dân tộc đều có truyền thống cơ sở của cái bất biến ấy là sự tiếp nối các nhà thơ lớn lớp trước.
ANH CHI
Tôi cho rằng câu hỏi đó không đặt ra để thu lại câu trả lời rành rẽ. Nhà thơ nào trả lời trọn vẹn được ? Đó là sự dằn vặt. Còn dằn vặt bởi nó, còn có thể làm được thơ hay.
KHƯƠNG HỮU DỤNG
Tôi tâm đắc câu thơ của người xưa "Ngâm thành ngũ cá tự, Dụng phá nhất sinh tâm", nghĩa là làm nên câu thơ năm chữ nát cả tấm lòng một đời...
TRINH ĐƯỜNG
Chim không thể tung cánh trong lồng cho dù là lồng son. Phải có lòng yêu tha thiết con người và chống lại mọi cái gì ràng buộc nó. Thơ có thơ người, thơ thần. Làm thơ là lên đồng. Thơ hay chỉ có lúc xuất thần. Thơ là Đạo. Có khổ công tu luyện, có quên mình mới đắc Đạo.
QUANG HUY
Hầu như câu thơ hay là câu thơ không giảng được (xin lỗi các nhà giáo và các nhà phê bình). Nó chỉ có thể cảm nhận được từ trong tiềm thức. Và cứ thế ngân lên, rung động không cưỡng nổi trong trái tim người đọc. Tất cả sự cầu kỳ rắc rối, cố gắng đổi mới về ngôn từ và nhịp điệu đều là vô ích.
TỐ HỮU
... Khi tôi hỏi về sứ mệnh nhà thơ, Guillen đáp "Làm thơ hay, đừng làm thơ dở". Khi có người hỏi Bác "Làm thế nào để có văn nghệ cho hay", Bác bảo "Phải làm cho hay". Nghĩ cho cùng thì cả hai câu trả lời đều chí lý.
"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", không ai thiên tài mà nhẫn tâm. Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đều có cái tâm lớn. Tâm là nhân, nhân ái, chống lại cái ác. Sự nghiệp Lỗ Tấn tập trung phản kháng trò người ăn thịt người. Con thú ăn thịt người hiện nay vẫn còn và chưa biết bao giờ mới hết. Số phận con người còn nhiều nỗi, nhiều cảnh ngộ đáng thương đáng quý. Điều đáng sợ là con người không biết thương con người...
TRẦN ĐĂNG KHOA
Giản dị, xúc động và ám ảnh. Phải có cùng một lúc cả ba yếu tố ấy thì mới có thơ hay. Nhưng đó là một điều khó và vì thế, nó vẫn còn là một bí mật.
LÊ THỊ KIM
Thơ hay là thơ khi đọc xong người ta cảm thấy sung sướng dù có là những dòng buồn. Người ta không thể chấp nhận một nghệ thuật, cho dù tinh luyện mà thiếu một cõi lòng, bởi thơ là tiếng nói của trái tim.
NGÔ MINH
... Thơ là tâm cảm, tâm tình thật của nhà thơ mong được giải bày, chia sẻ với đời.... Trên con đường vô định của thi ca, lòng say mê và bản lĩnh sống của nhà thơ là hành trang không thể thiếu để cho anh ta có thể gặt hái một điều gì đó.
NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT
... Làm thơ đối với tôi như một sự giải thoát, như một cứu cánh không thể nào thiếu được trong đời sống tinh thần và tình cảm của tôi.
HOÀNG TRUNG THÔNG
Tôi đọc thơ có đến hơn nghìn bài
Có những bài thơ tôi hiểu
Có những bài thơ tôi chẳng hiểu gì
Dù chỉ nói những lời giản dị
Mà vẫn phải nghĩ suy
Ôi! Đọc một bài thơ còn khó hiểu
Như phải khám phá ra điều kỳ diệu
Huống chi đọc cả một tâm hồn của một con người.
ĐÔNG TRÌNH
... Đây là câu hỏi của mọi câu hỏi. Và tôi mong tôi tin câu trả lời sẽ chẳng bao giờ tìm ra... Để cho cuộc đời một nửa địa ngục và một nửa thiên đường, một nửa xấu và tốt, một nửa đúng và sai, một nửa hay và dở. Để cho con người vẫn là một nửa ma quỷ và thần thánh. Để cho thơ ca còn là đền thờ, còn là một thế giới bí ẩn và huyền nhiệm... Để cho còn có tài năng bất tài, còn có bẩm sinh và phủ nhận bẩm sinh... Bất hạnh và nguy tai cho cuộc sống biết nhường nào nếu mọi người làm thơ đều làm ra đồng loạt những bài thơ hay. Tôi cảm ơn những cô gái xấu, vì chính từ họ mà ý niệm về cái đẹp hình thành...
-------------
(*) Sông Hương trân trọng trích giới thiệu 12 tác phẩm và 12 lời Nhà thơ trong Ngày Hội Thơ (NXB Văn Học - 1991)
THÚY BẮC
Vô đề
Nhiều năm em đợi anh
Gió đêm về hoang dại
Biệt tin người trở lại
Ngày em đi lấy chồng
Mây buông dải tang thầm
Tiễn một đời con gái
YẾN LAN
Đọc Nam Hoa Kinh
Sáng đọc Nam Hoa kinh
Tối nằm không hóa bướm
Mừng mình chủ được mình
Dậy thổi nồi khoai sớm
1989
TRẦN NHUẬN MINH
Chiều Yên Tử
Kinh không có chữ ấy là chân kinh
NGUYỄN DU
Nghe tiếng chuông chùa Yên
Sắc cỏ bỗng hoe vàng
Như có ai lững thững
Trong bóng chiều lang thang
Tiếng chuông như hồn người
Tìm nhau trong tĩnh lặng
Đường rừng hun hút trắng
Cây rừng biêng biếc xanh
Tôi nằm trên vệ cỏ
Đối mặt với trời cao
Một nỗi niềm trinh bạch
Giữa bốn bề gian lao
Tiếng chuông đến tìm tôi
Tỏa từng vòng tím tái
Bông lau như mất hồn
Trắng mờ chiều hoang dại
Cuộc đời đến đâu ư?
Con người là gì vậy?
Họa, phúc - có hay không?
Kiếp sau, ai đã thấy?
Mỗi người một câu hỏi
Đi mênh mang trong đời
Nổi chìm bao ghềnh thác
Tôi chưa tìm thấy tôi...
Tiếng chuông lừng lững tắt
Rừng già chìm âm u...
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Không đề
Anh còn gì cho em
Những tháng ngày gãy nát
Tuổi thanh xuân qua rồi
Dăm câu thơ nhòa nhạt
Lá trong chiều thu rơi
Anh còn gì cho em
Cánh đồng sau vụ gặt
Phiên chợ khi vãn người
Ngọn đèn vừa cạn bấc
Bãi biển kỳ nước lui
Anh còn gì cho em
Lỡ rồi không dám đợi
Buồn rồi không dám vui
Thuyền đã về bến ngủ
Biển mênh mông với trời
Anh còn gì cho em
Mặt trời lên chót đỉnh
Con đường trưa một mình
Anh đi trong bóng nhỏ
Bóng thu vào chân anh.
THÁI BÁ TÂN
Từ cuộc chiến tranh kia
Không hiểu sao gần đây
Đêm nào nằm cũng vậy
Tôi mơ toàn máy bay
Bom rơi và lửa cháy
Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi không tham dự
Máy bay Mỹ lại về
Hoàn toàn không hung dữ
Chúng lặng lẽ tìm tôi
Chỉ tìm tôi, thật lạ
Rồi từ từ bom rơi
Nhẹ nhàng như chiếc lá
Bom nổ cũng rất êm
Không bị thương, máu chảy
Tôi nằm chết, trái tim
Chỉ trái tim bốc cháy.
Tôi kêu, tôi van nài
Hãy cứu tôi, và đợi,
Nhưng hình không còn ai
Muốn nghe và muốn thấy
Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi như lẩn tránh
Nay chiến tranh lại về
Để làm tôi bất hạnh
Và cứ thế đêm đêm
Sau một ngày mỏi mệt
Dù không đau, dù êm
Tôi lại nằm, để chết!
1986
NGUYỄN ĐÌNH THI
Hoa không tên
Điểm biếc trên vách đá
Một đóa hoa
Bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đóa hoa không quên
Từ rất xa
Từ rất lâu
Một ngày bỗng nở
Đóa hoa không tên
Từ rất lâu
Từ rất xa
1987
HỮU THỈNH
Em còn nhớ chăng
Ai đưa đò tình
Buộc vào bến lở
Còn lại mình anh
Gom từng mảnh vỡ
Tháo cả mái trời
Che không đủ ấm
Đội nghìn cơn mưa
Không nhòa kỷ niệm
Như cây tìm lá
Như cá tìm vây
Anh gọi khản lời
Chiều dang dở gió
Mở trăng ra tìm
Trăng còn in bóng
Mở cỏ ra xem
Cỏ còn hơi ấm
Hoa vẫn ngày nào
Không an ủi được
Tình bao nhiêu bậc
Em còn nhớ chăng?
Thu 1989
TRẦN HỮU THUNG
Khó ngủ
Trằn trọc hoài chẳng ngủ
Lòng ngổn ngang lo buồn
Nhỏm dậy ngồi thương mẹ
Thắp đèn lại nhớ con
Bên bình minh mặt bể
Bên bóng tà hoàng hôn
Mình cũng đầu nắng xế
Gió chiều se mây dồn
Ánh ngày dang cánh vỗ
Đỉnh đại ngàn chon von
Niềm riêng đây thương nhớ
Những băn khoăn bồn chồn
Thơ vẫn còn viết dở
Đời nắng mưa vẫn còn
Ôi khuya càng thêm vắng
Đầu phên thưa gió luồn
Đành pha ấm trà đặc
Ngồi thức trắng đêm luôn.
DIỆP MINH TUYỀN
Đêm trăng bên mồ Hàn Mặc Tử
Một đồi một biển một trăng
Một Hàn Mặc Tử vĩnh hằng nằm đây
Một tôi nay viếng chốn này
Một tim một óc... từng say thơ vàng
Bạc tình một kiếp thi nhân
Bạc duyên bạc số bạc thân xác người
Một xưa đen bạc cuộc đời
Một nay hết bạc chăng tôi với tình
Người nằm đây với một mình
Tôi thăm người với lặng thinh nỗi buồn
Một dòng suối một trăng non
Một tuôn xuống bể một tuôn lên đồi
Một tràn xuống với hồn tôi
Thành bài thơ nhỏ dâng người hôm nay
2-90
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Địa chỉ buồn
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm
Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Cháy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Cây sầu đông cây sầu đau
Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm
Huế 89
ĐINH THỊ THU VÂN
Không đề
Anh đã ồn ào như chỉ biết vô tư
chẳng biết nhớ chẳng biết buồn và chưa hề xao động
em nhói buốt nhận ra mình lạc lõng
thương trái tim bé nhỏ tội tình!
như anh chỉ còn là của một mình anh
ly rượu đắng - niềm vui đang có thật
anh và bạn bè một niềm vui duy nhất
một tâm hồn không quá khứ, chẳng tơ vương
anh giấu đâu rồi những day dứt đau thương
cười cợt lắm và hồn nhiên quá đỗi
niềm vui trong men cay, niềm vui không đọng mãi
đớn đau nào ở lại cuối cơn say?
anh hãy dạt dào hãy khao khát, đầy vơi
đừng quên lãng thôi anh đừng quên lãng
xin đừng trốn mình trong men đắng
như bao lần em đã trốn lòng em
đừng như em bao lần vờ vĩnh hồn nhiên
uống nước mắt đầy hồn không để chảy
ôi nước mắt đắng cay đâu như rượu ấy
em uống một mình riêng lẻ một mình say
em uống một mình, nhưng làm sao uống giúp cho ai
giọt nước mắt ngược dòng tê tái chảy
giọt nước mắt chỉ riêng em nhìn thấy
Thôi xin đừng giấu nữa mến thương ơi!
BẰNG VIỆT
Ngày đã đứng trưa
Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Trưa lan xa bóng nắng đẫm vui buồn
Trưa đang đứng, còn đời mình đang chín
Giọt nắng vàng như mật sáng rưng rưng
Đã đứng rồi ư? Sao đời ngắn vậy
Nghĩ chưa xong, thời khắc điểm xong rồi
Đã chín rồi ư? Sao đời ngắn vậy
Quay lại nhìn, bao việc vẫn buông xuôi
Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Phút thiêng liêng thức tỉnh lại bao điều
Nhìn thấu suốt nhỏ nhoi và vĩ đại
Càng yên lòng rõi tới đích mình theo.
1991
(TCSH49/05&6-1992)
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!