Ngày hội thơ

09:27 19/03/2021


KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)

Một số nhà thơ trong phong trào Thơ Mới 1932, Từ trái sang phải:

Hàng đầu : Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ, Huy Cận, Tế Hanh.
Hàng thứ 2 : Hoài Chân, Xuân Tâm
Hàng thứ 3 : Nguyễn Xuân Huy, Mộng Huyền, Vũ Đình Liên - (Nguyễn Khắc Thùy
- nhạc sĩ)
Hàng sau cùng : Phan Khắc Khoan - (Hà Minh Đức - nhà LLPB)

     LTS: Thơ ca tác giả tự chọn kèm theo lời giải đáp câu hỏi: "Làm thế nào để có thơ hay". 131 nhà thơ hội viên Hội nhà văn Việt Nam, 131 lời tác giả, 131 bài thơ. Chc hẳn những người làm sách cũng như bạn đọc yêu thơ, sành thơ trong cả nước không coi tập sách này là đđầy, là khuôn mẫu, càng không th coi là tinh hoa hoặc những gì tương tự. Song điều này thì chắc hn : ngọn sóng tao đàn trào dâng, những dòng tâm huyết tuôn chy, trăm trái tim Người Thơ, trăm nhịp đập: cuồng nhiệt, thâm trm, chói chang, lặng l, u tịch, chân ch, o huyn...

     Nhóm Khuê Văn đã làm một việc không chỉ ý nghĩa mà còn đy trách nhiệm, nếu không mun nói là khai thông: rút chốt cánh cửa thơ, sau khi gióng lên hi trống l. Và thế là... xin mời quý bạn!(*).

 

VĂN CAO

Đó là hỏi đến bí mật của sáng tạo... Trong tất cả những phát ngôn về mỹ học trước đây, có thể rút ra những câu giải đáp... Đây là sự tiếp nối, tiếp nối những cái hay thời trước, nói cách khác là mô phỏng - mô phỏng đi tới chỗ nhập thần đến không còn biết là của ai. Aragon có khi dùng hẳn câu thơ của người khác như Éluard nhưng đều có ghi chú. Sự mô phỏng này là sự biến đổi trong cái không biến đổi như ở cấu trúc luận - variation des invariations. Mỗi dân tộc đều có truyền thống cơ sở của cái bất biến ấy là sự tiếp nối các nhà thơ lớn lớp trước.

ANH CHI

Tôi cho rằng câu hỏi đó không đặt ra để thu lại câu trả lời rành rẽ. Nhà thơ nào trả lời trọn vẹn được ? Đó là sự dằn vặt. Còn dằn vặt bởi nó, còn có thể làm được thơ hay.

KHƯƠNG HỮU DỤNG

Tôi tâm đắc câu thơ của người xưa "Ngâm thành ngũ cá tự, Dụng phá nhất sinh tâm", nghĩa là làm nên câu thơ năm chữ nát cả tấm lòng một đời...

TRINH ĐƯNG

Chim không thể tung cánh trong lồng cho dù là lồng son. Phải có lòng yêu tha thiết con người và chống lại mọi cái gì ràng buộc nó. Thơ có thơ người, thơ thần. Làm thơ là lên đồng. Thơ hay chỉ có lúc xuất thần. Thơ là Đạo. Có khổ công tu luyện, có quên mình mới đắc Đạo.

QUANG HUY

Hầu như câu thơ hay là câu thơ không giảng được (xin lỗi các nhà giáo và các nhà phê bình). Nó chỉ có thể cảm nhận được từ trong tiềm thức. Và cứ thế ngân lên, rung động không cưỡng nổi trong trái tim người đọc. Tất cả sự cầu kỳ rắc rối, cố gắng đổi mới về ngôn từ và nhịp điệu đều là vô ích.

TỐ HỮU

... Khi tôi hỏi về sứ mệnh nhà thơ, Guillen đáp "Làm thơ hay, đừng làm thơ dở". Khi có người hỏi Bác "Làm thế nào để có văn nghệ cho hay", Bác bảo "Phải làm cho hay". Nghĩ cho cùng thì cả hai câu trả lời đều chí lý.

"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", không ai thiên tài mà nhẫn tâm. Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đều có cái tâm lớn. Tâm là nhân, nhân ái, chống lại cái ác. Sự nghiệp Lỗ Tấn tập trung phản kháng trò người ăn thịt người. Con thú ăn thịt người hiện nay vẫn còn và chưa biết bao giờ mới hết. Số phận con người còn nhiều nỗi, nhiều cảnh ngộ đáng thương đáng quý. Điều đáng sợ là con người không biết thương con người...

TRẦN ĐĂNG KHOA

Giản dị, xúc động và ám ảnh. Phải có cùng một lúc cả ba yếu tố ấy thì mới có thơ hay. Nhưng đó là một điều khó và vì thế, nó vẫn còn là một bí mật.

LÊ THỊ KIM

Thơ hay là thơ khi đọc xong người ta cảm thấy sung sướng dù có là những dòng buồn. Người ta không thể chấp nhận một nghệ thuật, cho dù tinh luyện mà thiếu một cõi lòng, bởi thơ là tiếng nói của trái tim.

NGÔ MINH

... Thơ là tâm cảm, tâm tình thật của nhà thơ mong được giải bày, chia sẻ với đời.... Trên con đường vô định của thi ca, lòng say mê và bản lĩnh sống của nhà thơ là hành trang không thể thiếu để cho anh ta có thể gặt hái một điều gì đó.

NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT

... Làm thơ đối với tôi như một sự giải thoát, như một cứu cánh không thể nào thiếu được trong đời sống tinh thần và tình cảm của tôi.

HOÀNG TRUNG THÔNG

Tôi đọc thơ có đến hơn nghìn bài
Có những bài thơ tôi hiểu
Có những bài thơ tôi chẳng hiểu gì
Dù chỉ nói những lời giản dị
Mà vẫn phải nghĩ suy
Ôi! Đọc một bài thơ còn khó hiểu
Như phải khám phá ra điều kỳ diệu
Huống chi đọc cả một tâm hồn của một con người.

ĐÔNG TRÌNH

... Đây là câu hỏi của mọi câu hỏi. Và tôi mong tôi tin câu trả lời sẽ chẳng bao giờ tìm ra... Để cho cuộc đời một nửa địa ngục và một nửa thiên đường, một nửa xấu và tốt, một nửa đúng và sai, một nửa hay và dở. Để cho con người vẫn là một nửa ma quỷ và thần thánh. Để cho thơ ca còn là đền thờ, còn là một thế giới bí ẩn và huyền nhiệm... Để cho còn có tài năng bất tài, còn có bẩm sinh và phủ nhận bẩm sinh... Bất hạnh và nguy tai cho cuộc sống biết nhường nào nếu mọi người làm thơ đều làm ra đồng loạt những bài thơ hay. Tôi cảm ơn những cô gái xấu, vì chính từ họ mà ý niệm về cái đẹp hình thành...

      -------------

      (*) Sông Hương trân trọng trích giới thiệu 12 tác phẩm và 12 lời Nhà thơ trong Ngày Hội Thơ (NXB Văn Học - 1991)


THÚY BẮC

Vô đề

Nhiều năm em đợi anh
Gió đêm về hoang dại
Biệt tin người trở lại

Ngày em đi lấy chồng
Mây buông dải tang thầm
Tiễn một đời con gái



YẾN LAN

Đọc Nam Hoa Kinh

Sáng đọc Nam Hoa kinh
Tối nằm không hóa bướm
Mừng mình chủ được mình
Dậy thổi nồi khoai sớm
                        1989



TRẦN NHUẬN MINH

Chiều Yên Tử
            Kinh không có chữ ấy là chân kinh
                                   
NGUYỄN DU


Nghe tiếng chuông chùa Yên
Sắc cỏ bỗng hoe vàng
Như có ai lững thững
Trong bóng chiều lang thang

Tiếng chuông như hồn người
Tìm nhau trong tĩnh lặng
Đường rừng hun hút trắng
Cây rừng biêng biếc xanh

Tôi nằm trên vệ cỏ
Đối mặt với trời cao
Một nỗi niềm trinh bạch
Giữa bốn bề gian lao


Tiếng chuông đến tìm tôi
Tỏa từng vòng tím tái
Bông lau như mất hồn
Trắng mờ chiều hoang dại


Cuộc đời đến đâu ư?
Con người là gì vậy?
Họa, phúc - có hay không?
Kiếp sau, ai đã thấy?

Mỗi người một câu hỏi
Đi mênh mang trong đời
Nổi chìm bao ghềnh thác
Tôi chưa tìm thấy tôi...


Tiếng chuông lừng lững tắt
Rừng già chìm âm u...




VŨ QUẦN PHƯƠNG

Không đề

Anh còn gì cho em
Những tháng ngày gãy nát
Tuổi thanh xuân qua rồi
Dăm câu thơ nhòa nhạt
Lá trong chiều thu rơi

Anh còn gì cho em
Cánh đồng sau vụ gặt
Phiên chợ khi vãn người
Ngọn đèn vừa cạn bấc
Bãi biển kỳ nước lui

Anh còn gì cho em
Lỡ rồi không dám đợi
Buồn rồi không dám vui
Thuyền đã về bến ngủ
Biển mênh mông với trời


Anh còn gì cho em
Mặt trời lên chót đỉnh
Con đường trưa một mình
Anh đi trong bóng nhỏ
Bóng thu vào chân anh.




THÁI BÁ TÂN

Từ cuộc chiến tranh kia

Không hiểu sao gần đây
Đêm nào nằm cũng vậy
Tôi mơ toàn máy bay
Bom rơi và lửa cháy

Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi không tham dự
Máy bay Mỹ lại về
Hoàn toàn không hung dữ

Chúng lặng lẽ tìm tôi
Chỉ tìm tôi, thật lạ
Rồi từ từ bom rơi
Nhẹ nhàng như chiếc lá

Bom nổ cũng rất êm
Không bị thương, máu chảy
Tôi nằm chết, trái tim
Chỉ trái tim bốc cháy.


Tôi kêu, tôi van nài
Hãy cứu tôi, và đợi,
Nhưng hình không còn ai

Muốn nghe và muốn thấy

Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi như lẩn tránh
Nay chiến tranh lại về
Để làm tôi bất hạnh


Và cứ thế đêm đêm
Sau một ngày mỏi mệt
Dù không đau, dù êm
Tôi lại nằm, để chết!

                        1986



NGUYỄN ĐÌNH THI

Hoa không tên

Điểm biếc trên vách đá
Một đóa hoa
Bé nhỏ cười với núi mây lộng gió

Đóa hoa không quên

Từ rất xa
Từ rất lâu
Một ngày bỗng nở

Đóa hoa không tên
Từ rất lâu
Từ rất xa
            1987



HỮU THỈNH

Em còn nhớ chăng

Ai đưa đò tình
Buộc vào bến lở
Còn lại mình anh
Gom từng mảnh vỡ

Tháo cả mái trời
Che không đủ ấm
Đội nghìn cơn mưa
Không nhòa kỷ niệm


Như cây tìm lá
Như cá tìm vây
Anh gọi khản lời
Chiều dang dở gió

Mở trăng ra tìm
Trăng còn in bóng
Mở cỏ ra xem
Cỏ còn hơi ấm

Hoa vẫn ngày nào
Không an ủi được
Tình bao nhiêu bậc
Em còn nhớ chăng?

                        Thu 1989



TRẦN HỮU THUNG

Khó ngủ

Trằn trọc hoài chẳng ngủ
Lòng ngổn ngang lo buồn
Nhỏm dậy ngồi thương mẹ
Thắp đèn lại nhớ con


Bên bình minh mặt bể
Bên bóng tà hoàng hôn
Mình cũng đầu nắng xế
Gió chiều se mây dồn


Ánh ngày dang cánh vỗ
Đỉnh đại ngàn chon von
Niềm riêng đây thương nhớ
Những băn khoăn bồn chồn
Thơ vẫn còn viết dở
Đời nắng mưa vẫn còn


Ôi khuya càng thêm vắng
Đầu phên thưa gió luồn
Đành pha ấm trà đặc
Ngồi thức trắng đêm luôn.




DIỆP MINH TUYỀN

Đêm trăng bên mồ Hàn Mặc Tử

Một đồi một biển một trăng
Một Hàn Mặc Tử vĩnh hằng nằm đây
Một tôi nay viếng chốn này
Một tim một óc... từng say thơ vàng
Bạc tình một kiếp thi nhân
Bạc duyên bạc số bạc thân xác người
Một xưa đen bạc cuộc đời
Một nay hết bạc chăng tôi với tình
Người nằm đây với một mình
Tôi thăm người với lặng thinh nỗi buồn
Một dòng suối một trăng non
Một tuôn xuống bể một tuôn lên đồi
Một tràn xuống với hồn tôi
Thành bài thơ nhỏ dâng người hôm nay
                                                2-90



HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

Địa chỉ buồn

Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm

Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay

Tôi còn ngọn nến hao gầy
Cháy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa

Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang

Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Cây sầu đông cây sầu đau

Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm
                                                Huế 89



ĐINH THỊ THU VÂN

Không đề

Anh đã ồn ào như chỉ biết vô tư
chẳng biết nhớ chẳng biết buồn và chưa hề xao động
em nhói buốt nhận ra mình lạc lõng
thương trái tim bé nhỏ tội tình!


như anh chỉ còn là của một mình anh
ly rượu đắng - niềm vui đang có thật
anh và bạn bè một niềm vui duy nhất
một tâm hồn không quá khứ, chẳng tơ vương


anh giấu đâu rồi những day dứt đau thương
cười cợt lắm và hồn nhiên quá đỗi
niềm vui trong men cay, niềm vui không đọng mãi
đớn đau nào ở lại cuối cơn say?


anh hãy dạt dào hãy khao khát, đầy vơi
đừng quên lãng thôi anh đừng quên lãng
xin đừng trốn mình trong men đắng
như bao lần em đã trốn lòng em


đừng như em bao lần vờ vĩnh hồn nhiên
uống nước mắt đầy hồn không để chảy
ôi nước mắt đắng cay đâu như rượu ấy
em uống một mình riêng lẻ một mình say


em uống một mình, nhưng làm sao uống giúp cho ai
giọt nước mắt ngược dòng tê tái chảy

giọt nước mắt chỉ riêng em nhìn thấy
Thôi xin đừng giấu nữa mến thương ơi!




BẰNG VIỆT

Ngày đã đứng trưa

Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Trưa lan xa bóng nắng đẫm vui buồn
Trưa đang đứng, còn đời mình đang chín
Giọt nắng vàng như mật sáng rưng rưng

Đã đứng rồi ư? Sao đời ngắn vậy      
Nghĩ chưa xong, thời khắc điểm xong rồi
Đã chín rồi ư? Sao đời ngắn vậy

Quay lại nhìn, bao việc vẫn buông xuôi

Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Phút thiêng liêng thức tỉnh lại bao điều
Nhìn thấu suốt nhỏ nhoi và vĩ đại
Càng yên lòng rõi tới đích mình theo.

                                                1991

(TCSH49/05&6-1992)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.