TÂM VĂN
Hàn Phi tử - Pháp gia thời Chiến quốc viết rằng: “Văn hữu lại tuy loạn nhi hữu độc thiện chi dân, bất văn hữu dân loạn nhi hữu độc trị chi lại, cố minh chủ trị lại bất trị dân”.
Hàn Phi Tử - Ảnh: internet
(Chỉ từng nghe quan lại tuy loạn mà vẫn có hạng dân hiền lành, chứ chưa từng nghe quan lại cai trị tốt mà dân nổi loạn. Vì vậy bậc minh chủ trị quan lại chứ không (trực tiếp) trị dân) (Thiên Ngoại trừ thuyết hữu hạ - Kinh 4).
Đời Nhà Tống do Quân vương nhu nhược, Thái úy Cao Cầu một tay thao túng, gây bè kéo cánh, quyền hành khuất lấp mắt vua. Triều đình thì xa vời vợi. Tham quan, ô lại ra sức đục khoét, sách nhiễu lương dân. Từ phố thị đến nông thôn; từ văn quan võ tướng cho đến trí phú lê dân, ở bất cứ nơi đâu, đối với bất cứ người nào, nếu bị bọn ô lại, tham quan để mắt vào sắc hoặc tài thì họ sẽ trở thành nạn nhân và tai họa vô cớ chưa biết giáng xuống lúc nào là điều khó tránh. Chuyện ức hiếp, bất công, gai mắt, chướng tai, không nơi nào không có. Nhân phẩm, lương tri bị chà đạp thô bạo. Bởi cảnh tình trên nên 108 vị anh hùng tụ nghĩa ở Lương Sơn Bạc, khuấy động một phương trời, những mong đạp đổ nền thống trị thối nát, bất lương, đem lại yên bình hạnh phúc cho muôn dân trăm họ.
Thời Lê Trịnh của Việt Nam, Chúa át quyền Vua, ở Triều đình thì sa đọa ăn chơi, chốn hương thôn thì cường hào đục khoét, sưu cao thuế nặng, lao dịch triền miên, khiến trăm họ dân đen vô cùng khốn khổ. Nhiều anh hùng nông dân như Nguyễn Hữu Cầu đã đứng lên khởi nghĩa chống Triều đình. Thời Nhà Nguyễn, Cao Bá Quát là một kẻ sĩ hào hoa, một văn quan thương dân yêu nước, nhưng dưới sự hà khắc của chốn quan trường, bị o ép, bất công, không đem được tài trí của mình để cứu nước, giúp đời nên bực chí mà liên kết với Lê Duy Cự dấy binh nổi loạn. Kẻ cai trị thì cho họ là giặc phá hoại nước nhà. Người bị đàn áp, đoạ đày thì coi họ là bậc anh hùng muốn cứu người cùng khổ. Ai ủng hộ ai quá rõ mười mươi, chẳng cần luận bàn mọi người đều biết cả.
Lịch sử loài người từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đã ghi lại không biết bao nhiêu tấm gương những vị quan công minh liêm chính, yêu nước thương dân, hết lòng hết sức chăm lo cho cuộc sống và hạnh phúc của muôn dân mà cái triết lý chung nhất của những người làm quan tốt là biết lo trước dân lo, sướng sau dân sướng, coi hạnh phúc yên bình của trăm họ như hạnh phúc của chính mình mà cùng trăn trở với cái nghèo, cái đói, đồng kham cộng khổ, biết chăn dắt hướng đạo cho dân.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700), một tướng lãnh cầm quân tài ba, đã biết dùng tài đức để phủ dụ dân chúng. Sau khi bình định trấn Thuận Thành, Nguyễn Hữu Cảnh đã tổ chức ngay cho nhân dân khẩn hoang lập ấp, ổn định cuộc sống, thiết lập trật tự xã hội, tính kế lâu dài và khiến trấn Thuận Thành ngày càng vững vàng phát triển. Ông đã có công lớn trong sự nghiệp Nam tiến, mở mang bờ cõi. Do đó, ông đã được nhân dân kính phục, nhớ ơn. Ngày nay, đền thờ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được bảo tồn ở nhiều địa phương, trong đó lớn nhất là ở An Giang, Đồng Nai và Quảng Bình. Độc đáo hơn nữa là đền thờ ông còn có ở Nam Vang.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) ngay từ thuở còn hàn vi đã nuôi ý tưởng lập công danh, sự nghiệp để giúp đời: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Khi làm quan, ông chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, dựng làng, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình), huyện Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình) vào những năm cuối thập niên 1820. Nhớ ơn ông, nhân dân đã lập đền thờ khi ông còn sống, ngày nay hàng năm các huyện trên vẫn tổ chức lễ hội Nguyễn Công Trứ để tưởng nhớ công đức của ông.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đội ngũ cán bộ, công chức, Người viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, bởi vậy mà ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền, Người đã đề nghị: Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu “để cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà…”. Từ tháng 10-1945, Người gửi thư cho Ủy ban Nhân dân các tỉnh Bắc Bộ, thẳng thắn và nghiêm khắc phê phán bệnh quan liêu của một số cán bộ: "trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng kéo bè kéo cánh bà con, bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài", làm tổn hại đến uy tín của Chính phủ, mất lòng tin cậy của nhân dân. Từ đó, Người yêu cầu cán bộ phải kiên quyết tự sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. "Người đời không phải thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không kiên quyết sửa nó đi". Người cho rằng cán bộ cách mạng là "công bộc của dân", “…Công chức phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”. Người yêu cầu cán bộ phải cần kiệm liêm chính, cán bộ phải biết sướng cùng dân sướng, biết khổ cùng dân khổ, hành xử chí công vô tư, coi trọng lợi ích quốc gia, bởi đó vừa là chuẩn mực đạo đức, cũng là chuẩn mực pháp lí phù hợp với sự công bằng, bình đẳng.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đang quyết tâm huy động nhân tài, vật lực từ tất cả mọi nguồn tập trung cho công cuộc xây dựng đất nước nhằm mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quả thật, nhìn một cách tổng thể chúng ta rất tự hào rằng: mới chỉ trong một thời gian ngắn thực hiện công cuộc đổi mới, bộ mặt đất nước đã khác hẳn, từ một đất nước với nền nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi chiến tranh, lại bị cuốn trong nhiều năm của cơ chế quan liêu bao cấp đã thoát được nghèo, và có người đã vươn lên làm giàu thực sự. Uy tín của quốc gia ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy vậy, vẫn còn có nơi, có lúc, có cán bộ, công chức lợi dụng chức quyền mà lập bè kéo cánh, hẹp hòi, cục bộ, tâng công, tự cho mình đứng trên mọi người, đứng ngoài pháp luật mà hành xử ngược lại với lợi ích của nhiều người nhằm để vinh thân phì gia, nhưng lại nấp dưới cái vỏ vì dân tộc, quốc gia như Bác Hồ đã nói ở trên là điều không hiếm.
Không phải vô cớ mà công nhân đình công, thương nhân bãi thị, nông dân biểu tình. Truy xét cho cùng thì đều có lý do và theo nguyên lý muôn đời mà Mác đã khẳng định là có áp bức thì có đấu tranh. Khi một nơi có phát sinh khiếu nại, tố cáo của nhiều người thì chắc chắn phải có nguyên nhân. Dù cách gì đi nữa thì cũng do hành vi của kẻ có quyền đã đối trọng với lợi ích của nhiều người nên các đối tượng bị thiệt thòi phản ứng để bảo vệ lợi ích của mình bị người khác xâm hại (loại trừ âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch). Không thể có cách lý giải khác hơn là ở vùng đất nào nhân tình ly tán, nhân dân hành động nổi loạn thì ở đó phải xem lại đội ngũ chức sắc cầm quyền.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng lợi ích của nhân dân, luôn đứng về phía nhân dân, bảo vệ nhân dân. Bộ máy Nhà nước đang vận hành cũng chỉ nhằm mục đích đem lại cơm no, áo ấm cho nhân dân, đem lại hạnh phúc yên bình cho nhân dân, cho nên bất cứ cán bộ, công chức nào xâm hại đến lợi ích của nhân dân thì Nhà nước sẽ ra tay trừng phạt. Thật đáng buồn nhiều vụ tiêu cực, tham ô; nhiều hành vi nhũng nhiễu của nhiều cán bộ, công chức mà công luận đang than phiền với nhiều lý do vẫn chưa được xử lý; nhưng cũng thật sự vui mừng Đảng và Nhà nước đang quyết tâm loại trừ những phần tử hại nước, hại dân. Thời gian qua pháp luật đã thẳng tay trừng trị, không thiên vị với bất cứ một ai dù phẩm hàm cao hay thấp, từ tướng lĩnh đến nhân viên, nếu có hành vi phạm tội đã được xác định rõ ràng thì pháp luật không hề dung thứ.
Thực thi pháp luật: “Thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn”, “Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì không giữ vững kỷ luật. Chớ yêu ai mà thưởng, ghét ai mà phạt”. Chớ vịn cớ “Bảo vệ cán bộ” mà coi thường pháp luật, xét xử không nghiêm minh. Cần xét xử nghiêm minh để làm cho nhân dân tin vào chính quyền, vào Đảng" (Hồ Chí Minh). Những lời huấn thị trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối chiếu với quan điểm của Hàn Phi đã viết hơn hai ngàn năm trước như vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay nhiều vấn đề trong công vụ vẫn còn thiếu minh bạch để mọi người có thể chủ động hành xử hợp lý, công khai. Nếu những quy định bất hợp lý cứ tồn tại và kéo dài thì tư tưởng Hồ Chí Minh hay học thuyết của Hàn Phi được giáo dục áp dụng cũng kém tác dụng. Hy vọng công cuộc cải cách hành chính đang được tiến hành, tất cả các thủ tục sẽ được minh bạch công khai, loại bỏ các quy định phi lý, rườm rà, đưa tiện ích đến cho tổ chức, cá nhân có quyền thụ hưởng, đó là công cụ hữu hiệu để cấp có thẩm quyền giám sát hành vi của “quan lại thừa hành”, và khi phát hiện những sai phạm thì có căn cứ để “trị lại” chứ “bất trị dân” vậy.
T.V
(SDB 6-12)
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?