Ngâm thơ và đệm sáo cho thơ

15:44 20/01/2009
BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

1. Nghệ thuật ngâm thơ
Về thơ tình, nếu muốn dễ làm ray rứt lòng người, đòi hỏi bài thơ phải hay, từ ngữ phải xúc cảm… người nghệ sĩ ngâm thơ mới dễ dàng hòa nhập hồn mình vào nội dung tác phẩm, từ đó việc sử dụng âm điệu khi diễn ngâm mới dễ dàng chuyển tải tác phẩm đến người nghe một cách trọn vẹn. Với những bài thơ mang tính chiến đấu hoặc có ý tưởng trừu tượng, triết lý… cần phải xử lý theo cách đọc diễn cảm. Ví như trong khoảng năm 1945 - 1955, những bài thơ Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Đôi mắt người Sơn Tây (Quang Dũng), Quê hương (Giang Nam), Hai sắc hoa Tigôn (TTKH), Ngậm ngùi (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)… đều hội đủ những yếu tố nghệ thuật phù hợp với diễn ngâm, nên được đa số quần chúng yêu thích. Và ngay những người không chuyên nghiệp cũng chuyền tay nhau để ngâm nga trong những đêm văn nghệ quần chúng hay sinh hoạt trong salon thơ. Khoảng những năm 1955 - 1975, ở miền xuất hiện quá nhiều những bài thơ ủy mị, đã kéo theo một cách diễn ngâm kéo dài lê thê, giọng điệu đều đều, không ít nghệ sĩ chuyên nghiệp vô tình qua tác phẩm đã tạo ra một trường phái ngâm thơ rên rỉ…

Để ngâm một bài thơ, theo tôi cần nắm bắt một số vấn đề như sau: Trước tiên phải đọc kỹ bài thơ, hiểu rõ thể loại; xuyên suốt nội dung, hình tượng bài thơ đề cập đến. Ngắt câu, phân đoạn cho phù hợp với cách xử lý làn điệu; chuẩn bị kịch tính giọng để đặc tả tình cảm theo câu ý cần thiết, sử dụng làn điệu hợp lý vào từng câu, từng đoạn v.v… Ngâm thơ là bộ môn nghệ thuật cao đòi hỏi người nghệ sĩ phải nắm bắt và biết cách xử lý các làn điệu một cách nhuần nhuyễn. Phải thường nghe các chương trình thơ và cần phải có một bề dày luyện tập, điều cốt lõi là phải đam mê, có chất giọng.

2. Nghệ thuật đệm sáo cho thơ
Nghệ thuật đệm sáo cho ngâm thơ cũng rất đa dạng, phong phú. Khi đệm sáo cho ngâm thơ cần phải có những yếu tố như nắm vững các làn điệu để thể hiện chính xác qua nhạc cụ, hiểu rõ các thể loại thơ để theo sát được người ngâm từng câu, từng đoạn. Đệm sáo cho ngâm thơ luôn đòi hỏi tính sáng tạo, chất ngẫu hứng, bay bổng… Thơ hay, giọng ngâm có hồn, tiếng sáo đệm cũng phải hòa nhập được vào, từ đó mới tạo được sự giao duyên giữa ngâm thơ và sáo đệm. Vì không đơn thuần chỉ đệm cho một dòng nhạc, người đệm sáo cũng phải hiểu thơ, phải có những rung cảm theo tác phẩm như người ngâm mới sáng tạo ra những âm hưởng hài hòa được. Ví dụ: Một nghệ sĩ đang ngâm tao đàn, sau đó chuyển qua sa mạc hoặc lẩy kiều… thì người đệm sáo phải hiểu: Tao đàn là thổi như thế nào? Sa mạc, bồng mạc, lẩy kiều thổi làm răng.v.v…để thổi theo người ngâm, và như vậy thì giữa giọng ngâm và đệm sáo sẽ hòa quyện vào nhau, đưa bài thơ lên đỉnh cao…

Ngâm thơ luôn phải có sáo đệm mới tạo được sự đầy đặn, trong đó không gian của ngâm thơ luôn được khởi đầu bằng tiếng sáo, và cũng tiếng sáo sẽ nuôi dưỡng, làm đầy không khí thơ… Rất tiếc, tôi nhận thấy ở một số điểm diễn những chương trình ngâm thơ, Ban tổ chức rất xem nhẹ phần nhạc đệm, họ sử dụng nhạc nền tranh, sáo… khá tắc trách. Chưa kể đến sự hài hòa, chỉ riêng phần tone, giọng… luôn là người ngâm một nẻo, đàn tranh sáo một nẻo. Có nơi sử dụng đàn organ, guitare hòa cùng tranh sáo để đệm cho ngâm thơ, tạo ra một không khí đầy tạp âm. Ở sân khấu ca nhạc, ca sĩ rất coi trọng ban nhạc, trong ngâm thơ cũng cần phải vậy. Nhạc nền chính là dòng sông, trên đó ca hay ngâm là con thuyền bồng bềnh lướt sóng. Đáng tiếc là nhạc viện không đào tạo bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ này. Nhiều nhạc sĩ về sáo khi tốt nghiệp rất giỏi nhạc lý, lý thuyết hòa âm, độc tấu, ngâm thơ, đệm cho thơ, nhưng không nắm bắt được gì về nghệ thuật đệm sáo cho ngâm thơ, và khi được mời đệm cho thơ thì lúng túng. Những nghệ sĩ trong đàn tranh, đàn bầu, đàn nguyệt cũng không ngoại lệ vì họ chưa được đào tạo về đệm cho thơ. Ngâm thơ vốn đa dạng, cũng có những làn điệu phức tạp như bộ môn ca Huế.

3. Trình diễn ngâm thơ Huế tại Tp. Hồ Chí Minh
Huế là vùng đất của thi ca. Lịch sử đã hun đúc bao biến thiên sông núi, một Cố đô trầm thống đã chứng kiến bao đổi thay, thăng trầm và mất mát…
Nền ca nhạc dân tộc Thừa Thiên Huế phong phú qua những môn như nhạc cung đình, nhạc thính phòng, ru, ngâm, hò, vè. Trong đó riêng ngâm thơ là một bộ môn không thể thiếu trong bữa ăn văn hoá hàng ngày của mọi người dân xứ Huế. Ngâm thơ có một giá trị đặc biệt trong kho tàng âm nhạc và ca Huế.
Vì những ý nghĩa đặc thù nêu trên, người con xứ Huế nói chung và những người Huế sống xa quê nói riêng, ai ai trong lòng cũng mang một nỗi buồn xa xứ. Nó gậm nhấm và dễ chạnh lòng khi nghe một câu hò mái đẩy, một điệu nam ai, một lời ru của mẹ và một giọng ngâm thơ Huế êm đềm, sẽ làm họ thổn thức và sống lại những kỷ niệm của Huế một thời xa xưa…

Người con xứ Huế sống xa quê, rất nhiều người đã thành danh và đã để lại cho đời sau những tác phẩm văn hóa nghệ thuật cao, từ âm nhạc, thơ ca, hội hoạ… Họ là những nghệ sĩ làm sống lại nếp văn hóa Huế trên xứ người.
Nghệ thuật ngâm thơ Huế rất đa dạng, đòi hỏi người nghệ sĩ ngâm thơ phải có một bề dày tập luyện, một niềm đam mê và những hiểu biết tối thiểu về thi đàn, như làn điệu, thể loại, ngắt câu, phân đoạn… Đồng thời phải có sự sàng lọc, thẩm tra chuyên môn… Có như vậy nghệ thuật ngâm thơ Huế mới đi đến hoàn chỉnh.
Hiện tại những nghệ sĩ ngâm thơ và đệm nhạc cho thơ người Huế, sống ở Tp. Hồ Chí Minh rất ít ỏi. Ngoài những giọng ngâm Huế như Tô Kiều Ngân, Tôn Nữ Hỷ Khương, Hoàng Hương Trang, Hồng Vân, Vân Khánh, Bảo Cường, phần nhạc đệm có Thạch Cầm đàn tranh, Tô Kiều Ngân và Bảo Cường sáo trúc, không còn có mấy người.
Hy vọng bộ môn ngâm thơ truyền thống Huế mỗi ngày một đa dạng và phong phú hơn. Đồng thời, cũng mong mỏi và rất thiết tha có những giọng ngâm thơ mới, để cùng nhau hòa chung vào nhịp thở của thi đàn.
B.C

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)