Ảnh: Internet
Ấn tượng rõ nét nhất đối với tôi về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có từ khi đọc bài Ý nghĩ chị viết cách đây mươi lăm năm. Do một sự tình cờ, lần đầu tiên tôi được thấy bài thơ này trong sổ tay một anh bộ đội, sau đó mới đọc lại trên báo Văn nghệ (số 366 ra ngày 16-10-1970). Bài thơ thật ngắn. Ý NGHĨ Những cơn mưa Quen mà rất lạ Mưa chải dài cây lá Đọng ngấn tròn bâng khuâng Mưa đi đâu về đâu Chẳng ai biết nữa Chỉ biết sau cơn mưa Trời không còn vôi vữa Chỉ biết sau cơn mưa Mặt đất thành mới mẻ Con gà đi nhặt thóc Nắng lại vàng trên đồng Cây đâm chồi nẩy lộc Cát nhìn thêm mênh mông. 12-1969 Một vài cách diễn đạt nào đấy trong bài thơ, bây giờ đã trở nên ít nhiều mòn sáo, nhưng vào hồi ấy có thể coi là mới. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn tôi muốn nói ở đây chưa phải chuyện mới cũ, mà ở chỗ Ý nghĩ sớm cho thấy tác giả của nó có một tâm hồn thơ, có nghệ thuật làm thơ - mặc dù như Mỹ Dạ gần đây có nói, bấy giờ đang là lúc chị “tập tễnh vào nghề”.
Xét về cả một tứ thơ, những năm sau này Mỹ Dạ chưa có bài nào hay như Khoảng trời, hố bom - theo ý riêng tôi. Nhưng rải rác đó đây có những ý độc đáo, đọc rất thích. Nghĩ về đất, chỉ Mỹ Dạ mới viết một cách duyên dáng thế này: Đất như cô gái yêu Giấu bao điều chưa nói Bỗng nhú những mầm non Khi nghe mùa xuân gọi. Đứng trước nghĩa trang liệt sĩ, với lòng biết ơn sâu nặng những người đã hy sinh vì dân, vì nước, chỉ Mỹ Dạ mới thấy: Những nấm mồ xếp đều bên nhau Như những phím chiếc dương cầm của đất Rung lên những âm thanh lặng thầm không tắt Chỉ trái tim người mới nghe được mà thôi Trong không gian thơ mộng của buổi sớm ở Đà Lạt, Mỹ Dạ có một cách “nghe - nhìn” riêng: Tiếng chim trong ngân thành vòng thành chuỗi Như một loài hoa lạ của trời Thả từng chùm xuống thành phố đầy vơi Nhìn những người thầy thuốc mặc áo blu trắng đi lại trong đêm ở bệnh viện, chỉ Mỹ Dạ mới so sánh kiểu: Những chiếc áo blu nhẹ như loài hoa riêng của đêm. Trong các nhà thơ nữ, nếu Anh Thơ đã có một lần táo bạo: Mẹ ru bé ngủ êm êm - Như ru vũ trụ ngủ trên tay mình, thì Mỹ Dạ ít nhất đã có hai lần táo bạo. Năm 1971, chị viết: Bố sẽ bế con quay tròn Như xoay mấy vòng quả đất Năm 1974, chị viết: Ăn với nhau một que kem Mùa đông tan ria đầu lưỡi Có những ý đã có trong thơ người khác, Mỹ Dạ biết nói bằng cách nói của chị. Xuân Diệu: Lá bàng xanh non như ăn được Mỹ Dạ: Nhìn lá/ Cứ ngỡ là lá ngọt/ Bởi lá tơ non mơn mởn quá chừng. Xuân Diệu hỏi đất trời về sự sinh nở khi nhìn “quả sấu non trên cao”: Ôi từ không đến có - Xảy ra như thế nào? Mỹ Dạ thì lại hỏi: Cái phút hoa quỳnh nở Nó thế nào hở trăng? Nó thế nào hở sao? Nó thế nào hở gió? (Cũng may mà Mỹ Dạ biết dừng lại ở đấy. Chỉ quá đi một lần nữa chị khó có thể tránh được cái tiếng: lặp lại người khác, dù vô tình hay hữu ý). Giống như một số không nhiều những người làm thơ, Mỹ Dạ nói được những điều ai cũng biết nhưng không nói ra được, mà nếu có nói thì cũng nói bằng cách khác. Chẳng hạn: Ngày tôi chưa ra đời Nỗi mong chờ đã có Ngày tôi vừa tuổi nhớ Đã nghe “Đợi anh về”. Hay là: Bạn gái đáng yêu đến thế Cho tôi quên hết nhọc nhằn Cho tôi về thời con gái Sáng tròn như một vầng trăng Âm hưởng chính trong thơ Mỹ Dạ xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào. Nhưng có một lần - quý thay - nó thật khỏe mạnh, cái khỏe mạnh ít thấy ở những cây bút thơ phụ nữ: Giấu bao cơn bão trong lòng Cây buồn đứng ngắm mênh mông biển trời Mình đầm gió mặn mồ hôi Ngả trong nóng nực mặt trời trưa nay. Một điều cũng dễ thấy là, khi triển khai ý thơ, Mỹ Dạ thường bám sát nội dung hơn là chạy theo vần điệu. Chị làm chủ được mình, không cho ngôn từ trói buộc những suy nghĩ, không để vần điệu lái ngòi bút sang một nẻo đường khác nẻo đường đã định. Những năm trước kia, ở bài Đi trong đêm màu trắng, chị viết: Ta đi lên đồi cát mịn Biển ở ngoài kia nơi tiếng sóng đang reo Cát trắng quá nên đêm xuống chậm Hay Bảo Ninh mãi vẫn ban ngày? Gần đây, ở bài Như lá, chị viết: Tôi đi giữa mùa non Sững sờ trong bao dáng lá Nhớ ai Tôi gửi nụ hôn lên trời Rõ ràng, ở cả hai lần này (và nhiều lần khác nữa), nếu Mỹ Dạ không chủ động hy sinh một ít vần điệu, chắc gì chị giữ lại được những ý như vậy? Mỹ Dạ còn để ngòi bút mình thử thách trên nhiều thể thơ. Đó là một biện pháp làm cho thơ bớt đơn điệu… Tất nhiên, với cương vị một người đọc thơ, một người yêu thơ, hoặc với danh nghĩa một người phê bình thơ hay với tư cách một người bạn Mỹ Dạ, tôi còn có thể mong mỏi ở thơ chị điều này điều khác. Chẳng hạn, chị nên đưa vào thơ nhiều hơn nữa cái bộn bề, tươi mới của hiện thực (tôi nghĩ đến trường hợp Huy Cận với tập Trời mỗi ngày lại sáng, và Phạm Tiến Duật với nhiều bài thơ trong những năm chống Mỹ); hay là chị nên đa dạng hơn nữa trong cách cấu trúc những bài thơ; hoặc là chị nên thế này thế nọ… Nhưng có lẽ hãy dành cho một dịp khác. Bằng vào những dẫn chứng nêu trên, ở đây tôi chỉ muốn khẳng định một điều: Mỹ Dạ có ý thức lao động nghiêm túc trong việc làm thơ. Ý thức ấy đem lại một kết quả rõ rệt: thơ chị có những nét riêng, có bản sắc riêng. Cũng chẳng ngại là sớm đối với một người đã làm thơ gần hai chục năm như Mỹ Dạ, khi nói rằng bản sắc riêng ấy là phong cách của thơ chị, dù cho phong cách còn gồm những điều khác nữa, và phong cách không phải là cái gì “nhất thành bất biến”. Mà bản sắc riêng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Bởi vì, chắc ai cũng biết, trong văn chương - mà có lẽ trong lĩnh vực nào cũng vậy thôi xét về một phương diện nào đấy, nếu một người không có cái gì là của riêng mình thì người ấy không có gì hết. Cái đáng quý nhất của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, theo tôi, chính là ở đó. Hà Nội 3-1984 H.D. (7/6-84) ---------------------------- (*) Trái tim sinh nở, phần thơ in trong tập Trái tim nỗi nhớ, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ý Nhi, NXB Văn học, 1974, Bài thơ không năm tháng, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, NXB Tác phẩm Mới, 1983. |
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.
PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.
NHỤY NGUYÊN
Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.
QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.
NHỤY NGUYÊN
(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)
TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…
BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.
HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.
VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!
MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.
DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.
LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.
FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.