Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

14:32 05/11/2010
HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

Ảnh: Internet

n tượng rõ nét nhất đối với tôi về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có từ khi đọc bài Ý nghĩ chị viết cách đây mươi lăm năm. Do một sự tình cờ, lần đầu tiên tôi được thấy bài thơ này trong sổ tay một anh bộ đội, sau đó mới đọc lại trên báo Văn nghệ (số 366 ra ngày 16-10-1970). Bài thơ thật ngắn.

Ý NGHĨ

Những cơn mưa
Quen mà rất lạ
Mưa chải dài cây lá
Đọng ngấn tròn bâng khuâng
Mưa đi đâu về đâu
Chẳng ai biết nữa
Chỉ biết sau cơn mưa
Trời không còn vôi vữa
Chỉ biết sau cơn mưa
Mặt đất thành mới mẻ
Con gà đi nhặt thóc
Nắng lại vàng trên đồng
Cây đâm chồi nẩy lộc
Cát nhìn thêm mênh mông.

                       
12-1969

Một vài cách diễn đạt nào đấy trong bài thơ, bây giờ đã trở nên ít nhiều mòn sáo, nhưng vào hồi ấy có thể coi là mới. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn tôi muốn nói ở đây chưa phải chuyện mới cũ, mà ở chỗ Ý nghĩ sớm cho thấy tác giả của nó có một tâm hồn thơ, có nghệ thuật làm thơ - mặc dù như Mỹ Dạ gần đây có nói, bấy giờ đang là lúc chị “tập tễnh vào nghề”.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Mỹ Dạ làm thơ hay nói đúng hơn là in thơ trên báo chí không nhiều - nếu không muốn nói là ít - so với những bạn thơ khác. Và gần hai chục năm trời, chị cũng chỉ có một tập và nửa tập, cộng lại mới được năm chục bài. Nhưng thơ Mỹ Dạ khởi sắc khá nhanh. Sau khi viết Ý nghĩ vài ba năm, chị đã có những bài làm người đọc ngạc nhiên - nhất là Khoảng trời, hố bom (một trong bốn bài thơ của chị được tặng giải nhất, cùng một số bạn thơ khác, trong cuộc thi thơ 1972-1973 của báo Văn nghệ). Cái tứ của Khoảng trời, hố bom khá độc đáo. Bài thơ nói chuyện một cô gái mở đường hy sinh vì bom Mỹ. Những giọt mưa đọng lại trong hố bom đã giết cô, như là “nước trời xoa dịu vết thương đau”; nước trong hố bom in “một khoảng trời nho nhỏ”; cái khoảng trời ấy nằm yên trong đất. Ở khoảng trời hố bom, ban đêm thì ánh sao như tâm hồn cô gái “tỏa sáng lung linh”, ban ngày thì đầy nắng với những làn mây trôi qua - mây là thịt da cô “mềm mại, trắng trong”; mặt trời đi vào khoảng trời hố bom như trái tim cô rực sáng. Người người qua đường nhìn xuống hố bom như nhìn vào một tấm gương. Có thể đoán mà không sợ sai rằng, để có một bài như Khoảng trời, hố bom, Mỹ Dạ đã lao động nghệ thuật một cách công phu và đầy sáng tạo.

Xét về cả một tứ thơ, những năm sau này Mỹ Dạ chưa có bài nào hay như Khoảng trời, hố bom - theo ý riêng tôi. Nhưng rải rác đó đây có những ý độc đáo, đọc rất thích. Nghĩ về đất, chỉ Mỹ Dạ mới viết một cách duyên dáng thế này:

Đất như cô gái yêu
Giấu bao điều chưa nói
Bỗng nhú những mầm non
Khi nghe mùa xuân gọi.


Đứng trước nghĩa trang liệt sĩ, với lòng biết ơn sâu nặng những người đã hy sinh vì dân, vì nước, chỉ Mỹ Dạ mới thấy:

Những nấm mồ xếp đều bên nhau
Như những phím chiếc dương cầm của đất
Rung lên những âm thanh lặng thầm không tắt
Chỉ trái tim người mới nghe được mà thôi


Trong không gian thơ mộng của buổi sớm ở Đà Lạt, Mỹ Dạ có một cách “nghe - nhìn” riêng:

Tiếng chim trong ngân thành vòng thành chuỗi
Như một loài hoa lạ của trời
Thả từng chùm xuống thành phố đầy vơi


Nhìn những người thầy thuốc mặc áo blu trắng đi lại trong đêm ở bệnh viện, chỉ Mỹ Dạ mới so sánh kiểu:

Những chiếc áo blu nhẹ như loài hoa riêng của đêm. Trong các nhà thơ nữ, nếu Anh Thơ đã có một lần táo bạo: Mẹ ru bé ngủ êm êm - Như ru vũ trụ ngủ trên tay mình, thì Mỹ Dạ ít nhất đã có hai lần táo bạo. Năm 1971, chị viết:

Bố sẽ bế con quay tròn
Như xoay mấy vòng quả đất

Năm 1974, chị viết:

Ăn với nhau một que kem
Mùa đông tan ria đầu lưỡi


Có những ý đã có trong thơ người khác, Mỹ Dạ biết nói bằng cách nói của chị.

Xuân Diệu: Lá bàng xanh non như ăn được

Mỹ Dạ: Nhìn lá/ Cứ ngỡ là lá ngọt/ Bởi lá tơ non mơn mởn quá chừng.

Xuân Diệu hỏi đất trời về sự sinh nở khi nhìn “quả sấu non trên cao”: Ôi từ không đến có - Xảy ra như thế nào? Mỹ Dạ thì lại hỏi:

Cái phút hoa quỳnh nở
Nó thế nào hở trăng?
Nó thế nào hở sao?
Nó thế nào hở gió?

(Cũng may mà Mỹ Dạ biết dừng lại ở đấy. Chỉ quá đi một lần nữa chị khó có thể tránh được cái tiếng: lặp lại người khác, dù vô tình hay hữu ý).

Giống như một số không nhiều những người làm thơ, Mỹ Dạ nói được những điều ai cũng biết nhưng không nói ra được, mà nếu có nói thì cũng nói bằng cách khác. Chẳng hạn:

Ngày tôi chưa ra đời
Nỗi mong chờ đã có
Ngày tôi vừa tuổi nhớ
Đã nghe “Đợi anh về”
.

Hay là:

Bạn gái đáng yêu đến thế
Cho tôi quên hết nhọc nhằn
Cho tôi về thời con gái
Sáng tròn như một vầng trăng

Âm hưởng chính trong thơ Mỹ Dạ xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào. Nhưng có một lần - quý thay - nó thật khỏe mạnh, cái khỏe mạnh ít thấy ở những cây bút thơ phụ nữ:

Giấu bao cơn bão trong lòng
Cây buồn đứng ngắm mênh mông biển trời
Mình đầm gió mặn mồ hôi
Ngả trong nóng nực mặt trời trưa nay.


Một điều cũng dễ thấy là, khi triển khai ý thơ, Mỹ Dạ thường bám sát nội dung hơn là chạy theo vần điệu. Chị làm chủ được mình, không cho ngôn từ trói buộc những suy nghĩ, không để vần điệu lái ngòi bút sang một nẻo đường khác nẻo đường đã định. Những năm trước kia, ở bài Đi trong đêm màu trắng, chị viết:

Ta đi lên đồi cát mịn
Biển ở ngoài kia nơi tiếng sóng đang reo
Cát trắng quá nên đêm xuống chậm
Hay Bảo Ninh mãi vẫn ban ngày?


Gần đây, ở bài Như lá, chị viết:

Tôi đi giữa mùa non
Sững sờ trong bao dáng lá
Nhớ ai
Tôi gửi nụ hôn lên trời

Rõ ràng, ở cả hai lần này (và nhiều lần khác nữa), nếu Mỹ Dạ không chủ động hy sinh một ít vần điệu, chắc gì chị giữ lại được những ý như vậy? Mỹ Dạ còn để ngòi bút mình thử thách trên nhiều thể thơ. Đó là một biện pháp làm cho thơ bớt đơn điệu…

Tất nhiên, với cương vị một người đọc thơ, một người yêu thơ, hoặc với danh nghĩa một người phê bình thơ hay với tư cách một người bạn Mỹ Dạ, tôi còn có thể mong mỏi ở thơ chị điều này điều khác. Chẳng hạn, chị nên đưa vào thơ nhiều hơn nữa cái bộn bề, tươi mới của hiện thực (tôi nghĩ đến trường hợp Huy Cận với tập Trời mỗi ngày lại sáng, và Phạm Tiến Duật với nhiều bài thơ trong những năm chống Mỹ); hay là chị nên đa dạng hơn nữa trong cách cấu trúc những bài thơ; hoặc là chị nên thế này thế nọ… Nhưng có lẽ hãy dành cho một dịp khác.

Bằng vào những dẫn chứng nêu trên, ở đây tôi chỉ muốn khẳng định một điều: Mỹ Dạ có ý thức lao động nghiêm túc trong việc làm thơ. Ý thức ấy đem lại một kết quả rõ rệt: thơ chị có những nét riêng, có bản sắc riêng. Cũng chẳng ngại là sớm đối với một người đã làm thơ gần hai chục năm như Mỹ Dạ, khi nói rằng bản sắc riêng ấy là phong cách của thơ chị, dù cho phong cách còn gồm những điều khác nữa, và phong cách không phải là cái gì “nhất thành bất biến”. Mà bản sắc riêng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Bởi vì, chắc ai cũng biết, trong văn chương - mà có lẽ trong lĩnh vực nào cũng vậy thôi xét về một phương diện nào đấy, nếu một người không có cái gì là của riêng mình thì người ấy không có gì hết. Cái đáng quý nhất của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, theo tôi, chính là ở đó.

Hà Nội 3-1984
H.D.
(7/6-84)


----------------------------
(*) Trái tim sinh nở, phần thơ in trong tập Trái tim nỗi nhớ, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ý Nhi, NXB Văn học, 1974, Bài thơ không năm tháng, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, NXB Tác phẩm Mới, 1983.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.