Nét Huế trong một số từ ngữ chỉ món ăn của Huế

14:07 25/02/2010
TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.

Ảnh: Internet

Cách ăn uống, các món ăn của Huế được đánh giá là sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và sự đổi mới, giữa nét cầu kỳ, tinh lọc và sự đơn giản, xứng đáng là thành tựu đặc sắc của văn hóa dân gian Việt Nam. Tính chất này được biểu hiện rất rõ trong nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn Huế trên nghĩa từ và cấu trúc từ.

1. Người Huế có lối ăn “ tổng hợp”, nghĩa là ăn nhiều thứ trong một món ăn... Phân tích sâu về cấu trúc- ngữ nghĩa của các từ và các tổ hợp từ chỉ tên gọi các món ăn ta sẽ thấy rõ tính chất riêng của vùng đất này.

Cũng là những từ, tổ hợp từ chỉ tên gọi các loại bánh như: “ bánh ướt”, “ bánh bèo”, “ bánh lá”, “ bánh hỏi”... mà các vùng khác đều có nhưng với Huế lại có những tổ hợp từ có nhiều yếu tố khu biệt hơn, cấu trúc đa dạng hơn: “ bánh hỏi thịt quay”, “ bánh bèo tôm chấy”, “ bánh ướt thịt nướng”... Cấu trúc các tổ hợp này gồm hai yếu tố: tổ hợp thứ nhất chỉ loại bánh, tổ hợp thứ hai chỉ nguyên liệu loại biệt. Trong tổ hợp thứ nhất, chủ tố là yếu tố “ bánh”, còn định tố có thể chỉ hình thể: (bánh) bèo, chỉ phương thức làm chín: (bánh) hơi, chỉ đặc trưng về tính chất: (bánh) ướt... Tổ hợp thứ nhất chỉ loại bánh nói chung đa số được chế biến bằng loại cây lương thực. Tổ hợp thứ hai đóng vai trò phụ gia cho tổ hợp thứ nhất. Ở đây chủ tố chỉ nguyên liệu và định tố chỉ phương thức làm chín: tôm chấy, thịt nướng... Rất ít tổ hợp chủ tố chỉ nguyên liệu như: chả tôm.

Điều thú vị đáng lưu tâm đối với các tổ hợp gọi tên bánh mang tính “ tổng hợp” này là chỗ: đa số tổ hợp thứ nhất chỉ loại bánh được chế biến từ thực vật cho nên tổ hợp thứ hai làm phụ gia thường là những món ăn chế biến từ động vật như tôm chấy, thịt quay, thịt nướng... Và nếu phương pháp làm chín của tổ hợp thứ nhất là bằng nước, bằng hơi... thì phương pháp làm chín nguyên liệu giữ vai trò phụ gia lại thường bằng lửa trực tiếp hay chất béo như “ nướng”, “ quay”, “ chấy”... Chính sự tổng hợp này làm cho bánh có mùi vị đặc biệt hơn, ngon hơn và cũng “ văn hóa” hơn.

Cũng là món ăn chế biến từ cá đem làm cho chín bằng hơi nhưng người Huế thường chỉ chọn hai loại cá để hấp là “ cá bươi” và “ cá hanh”. Các yếu tố phụ gia để hấp hai loại cá này cũng thật phong phú. Vì vậy cũng có rất nhiều từ chỉ các món ăn được hấp với hai loại cá này: cá bươi hấp nấm, cá bươi hấp kim châm, cá bươi hấp vỏ quýt, cá hanh hấp tương, cá hanh hấp thịt mỡ...

Thịt luộc là món ăn có ở mọi nơi nhưng có lẽ chỉ có cách ăn ở Huế mới cung cấp cho ta các tổ hợp từ mang tính chất “ tổng hợp” kiểu: thịt luộc chấm tôm chua, thịt luộc chấm mắm nêm...

Từ nguyên liệu chính là mực kết hợp với các nguyên liệu phụ gia khác nhau, người Huế đã tạo ra các món ăn có các tổ hợp tên gọi thật phong phú: mực khô trộn thanh trà, mực tươi xào thơm...

Không chỉ món ăn cao sang chỉ tính “ tổng hợp” mà ngay đến nước chấm của Huế cũng thật nhiều loại và thể hiện kỹ thuật “ tổng hợp”. Các tổ hợp chỉ các loại nước chấm còn đa dạng hơn về cấu trúc so với các loại chỉ món ăn “ tổng hợp” khác: nước mắm chanh, ớt, tỏi, đường, mắm nêm đường, chanh, ớt, nước sốt lòng đỏ trứng gà, nước tương đường...

Du khách đến Huế không ai không biết đến sự đa dạng và khác biệt về các loại chè ở đây. Sự “ tổng hợp” và đa dạng này thể hiện ngay trong cấu trúc tên gọi: chè bột lọc bọc thịt quay, chè bột lọc bọc hột sen, chè hột sen bọc nhãn lồng...

Cấu trúc các tên gọi này gồm có:

Chủ tố+ nguyên liệu chính+ phương pháp chế tác làm kín nguyên liệu phụ+ nguyên liệu phụ.

Tóm lại, nhìn một cách khái quát cấu trúc tên gọi những món ăn “ tổng hợp” này ta thấy:

- Ở đây, yếu tố chỉ nguyên liệu chính và chỉ phương thức chế tác đã là quan trọng nhưng yếu tố chỉ nguyên liệu phụ phối hợp không kém phần quan trọng, mặc dầu nhiều khi nó chỉ tạo nên màu sắc riêng, tạo nên nét cá thể hóa của món ăn. Chính sự cá thể hóa này tạo nên sắc màu riêng của Huế.

- Trong chế biến thức ăn của người Huế các chi tiết về nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ, phương pháp chế biến... đan xen vào nhau, nó là do sự tổng hợp của những yếu tố “ tích cực” của các phương thức chế biến khác nhau” bánh bèo tôm chấy, bánh lá chả tôm... hoặc là các nguyên liệu khác nhau về bản chất: mực khô trộn thanh trà, cá bươi hấp vỏ quýt, cá hanh hấp tương, chè bột lọc bọc nhãn lồng...

2. Nét đặc biệt thứ hai đáng chú ý trong tên gọi các món ăn Huế là các yếu tố chỉ màu sắc tham gia trong cấu trúc từ và tổ hợp từ. Chính điều này thể hiện thẩm mỹ trong ăn uống của người dân Huế. Thật vậy, trong các món ăn, người Huế rất chú ý đến cái đẹp, cái gợi cảm. Chẳng hạn, để gọi tên các loại bánh, mứt... có các tổ hợp: bánh tế điều, bánh tế hường, bánh bột vàng, bánh bột trắng, bánh ngũ sắc, mứt ngũ sắc, mứt màu qủa, mứt màu hoa... Các tên gọi chỉ tên các bánh, mứt... này chỉ được dùng trong yến tiệc của vua chúa nhà Nguyễn trước đây và cho đến nay vẫn còn tên gọi như thế. Xét về cấu trúc thì các tổ hợp trên thường gồm ba yếu tố, trong đó yếu tố thứ nhất không có gì cần bàn. Đáng để ý là yếu tố thứ hai và thứ ba. Có thể thấy người Huế “ đối xử” như sau với các yếu tố này:

- Nếu như tên gọi một số loại bánh nói chung của người Việt thường yếu tố thứ hai chỉ chất liệu thì thường gặp nhất ở Huế yếu tố thứ hai chỉ “ màu”, “ sắc”: mứt màu hoa, mứt màu quả, bánh sắc vàng...

-
Thường gặp nữa là các tổ hợp gọi tên mức, bánh... trong đó yếu tố thứ hai chỉ số lượng màu sắc (thường ứng với con số “ 5” và yếu tố Hán là “ ngũ” để tăng sắc màu trang trọng và thể hiện sự đều đặn, cân đối, đẹp mắt)

- Cũng thường gặp loại tổ hợp mà yếu tố thứ hai chỉ mục đích như “ cúng”, “ tế”, “ lễ”: bánh tế điều, bánh tế vàng...

- Ít gặp nhất là loại cấu trúc tổ hợp gọi tên có yếu tố thứ hai chỉ nguyên liệu- mặc dù phải có nguyên liệu mới làm ra được bánh, mứt.

Trong các tổ hợp này có nét chung là: dù là định tố thứ nhất hay định tố thứ hai nhưng trong hai định tố phải có một định tố là chính yếu tố “ sắc”, “ màu” trong tiếng Việt.

Xu hướng gọi tên bánh, mứt này của người Huế gắn liền với truyền thống, một truyền thống thể hiện tính thẩm mỹ trong ăn uống đã có tự ngàn xưa hoặc ít ra cũng bắt đầu từ những món ăn quý tộc của nhà Nguyễn. Như vậy, trong chế biến cũng như tên gọi các món ăn thì đặc điểm được người Huế cọi trọng không riêng gì chất liệu, hình thể, nguyên liệu phụ gia... mà ngay cả sắc màu để tạo cái đẹp về sự cảm thụ bằng mắt.

3. Nghiên cứu các từ, tổ hợp từ chỉ tên gọi các món ăn Huế ta thấy nó có cả một hệ thống gọi tên tinh tế, tỷ mỷ, phong phú và đậm đặc bản sắc địa phương. Từ sự đa dạng của các món ăn này mà Huế có cả một hệ thống các từ chỉ kỹ thuật chế biến rất đặc biệt. Loại từ chỉ kỹ thuật nấu nướng này là những động từ phân biệt rất chi ly về mức độ, tính chất của nó. Chẳng hạn: nấu, nướng, kho, luộc, chiên, xào, chưng, hấp, rang...là những động từ chỉ kỹ thuật nấu nướng. Tương tự với mỗi động từ chỉ hoạt động khái quát lại có hàng loạt những từ và tổ hợp từ chỉ các hoạt động loại biệt nằm trong hoạt động khái quát đó. Chẳng hạn, từ đặc sản “ cá”, người Huế có thể “ kho khô”, “ kho nước”, “ kho xăm xắp”, “ kho ăn liền”, “ kho để lâu”... Hoặc từ vật liệu là “ tôm”, kết hợp với kỹ thuật chế biến món ăn từ con tôm đó, người nội trợ đã cung cấp hàng loạt các từ chỉ các phương thức chế biến khác nhau: “ tôm nướng”, “ tôm om”, “ tôm rim”, “ tôm xào”, “ tôm chấy”, “ tôm chiên”, “ chả tôm”, “ chặc tôm”, “ tôm chua”, “ mắm tôm”...

Sự phân chia một cách chi ly về kỹ thuật nấu nướng này của người Huế có lẽ cũng phải bắt đầu từ việc chế biến các món ăn quý tộc. Sự tồn tại hàng trăm năm của vua chúa nhà Nguyễn không thể không để lại những món ăn phức tạp có đôi chút cầu kỳ cho hôm nay. Hơn nữa, dưới thời ấy, những tinh hoa về nghệ thuật nấu nướng của cả nước được đưa về Huế để phục vụ cho cuộc sống của những người trong hoàng tộc. Chính những người này đã để lại cho Huế một vốn quý về nghệ thuật nấu nướng, pha chế các món ăn. Nhóm từ, tổ hợp từ chỉ kỹ thuật nấu nướng với hàng loạt các động từ này đã chứng minh thực tế đó.

Tóm lại, với một số cứ liệu ngôn ngữ đã được diễn giải, phân tích ở trên, chúng ta có thể đi đến nhận xét mang tính kết luận: qua nhóm từ chỉ cách ăn, món ăn Huế đã thể hiện nét văn hóa truyền thống của Huế. Việc phân tích này cho thấy văn hóa Huế có sự tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa cung đình thời Nguyễn, cộng với đặc điểm tự nhiên, khí hậu, tâm lý, con người xứ Huế tạo nên một bản sắc văn hóa độc đáo, có nhiều điểm khác biệt với các vùng khác. Nói cách khác, văn hóa cung đình thời Nguyễn, tính chất biệt lập và tự nhiên của Huế đã mang lại những sắc thái đặc biệt của văn hóa Huế. Nhóm từ chỉ cách ăn, món ăn Huế là biểu hiện một nét văn hóa Huế trong ngôn ngữ.

T.T.T
(131/01-2000)


------------------------------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Quang, “
Người và đất Huê”. Báo Nhân dân, tháng 10- 1975.
2. Lê Văn Hảo.
Huế giữa chúng ta. NXB Thuận Hóa Huế, 1984.
3.
Tạp chí Dân tộc học, số 2- 1981.
4.
Tạp chí Ngôn ngữ, số 3-1990
5.
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2- 1991



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.

  • DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI

    Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.

  • PHẠM HẠNH THƯ

    Du lịch Huế xưa
    Du lịch Huế có một lịch sử thơ ca dân gian gắn liền với những bước phát triển của mình.