Nên hay không nên loại bỏ chữ Hán ra khỏi ngôn ngữ Việt

10:33 16/02/2022

DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ

Câu hỏi trên đây, từ trước đến nay đã làm bận tâm không ít những người hằng quan tâm đến tương lai tiếng Việt, và mối bận tâm ấy đã được vài ba tác giả đề cập trên báo.

 

Ảnh: internet

Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ (số ngày 14/01/88) của một tác giả đả kích việc dùng chữ Hán trên các thiệp cưới. Còn bài kia của một vị khác đăng từ thời chế độ cũ trên báo Thần Phong (Sài Gòn, tháng 9/1970), nhan đề "Thử tìm lời Việt so lời Hán" cũng phản đối kịch liệt việc cho từ Hán vào văn thơ Việt, trong đó tác giả hô hào mọi người kiên quyết "Lột xác chữ Việt", gạt bỏ tàn tích "nô lệ văn chương Tàu". Tác giả đòi viết lại Kiều, Cung oán, Chinh phụ ngâm... cùng hết thảy các văn thơ có từ thời dựng nước bằng toàn bộ chữ quốc ngữ. Thí dụ như trong truyện Kiều, tác giả đòi sửa lại như sau:

- Mấy tên thủy thủ ác danh

Là: Mấy thằng chèo lái gớm tên

- Trải bao thỏ lặn ác tà... - Trải bao thỏ lặn quạ nghiêng...

Ý kiến của các tác giả nêu trong hai bài báo nói trên đúng hay sai thì cũng đều ý tốt cả. Tuy nhiên, chuyện đó xin nhường cho các chuyên gia khảo cứu về ngôn ngữ học, kẻ viết bài này không đủ khả năng bàn chuyện đó, mà chỉ muốn nói tới việc du nhập từ Hán vào ngôn ngữ Việt sao cho hợp tình hợp lý mà thôi.

Như ta đã biết, việc vay mượn tiếng nói của nước khác làm ngôn ngữ riêng cho nước mình thì hầu như nước nào cũng có. Không nói Việt Nam, một số quốc gia được coi là tiến bộ như Anh, Pháp... cũng đều có sự vay mượn qua lại tiếng nói của nhau, nghĩa là tiếng nói nguyên thủy của các dân tộc ấy ít nhiều đều có pha trộn tiếng nói của nước khác. Nhìn chung, ta còn nhận thấy tiếng nói của họ phần lớn gốc La Tinh, Hy Lạp. Sau đây là vài ba thí dụ:

* Pháp mượn của Việt: Congay / con gái, Gnaque / nhà quê, Sordiailles / sóc đĩa (một hình thức cờ bạc rất thịnh hành ở miền Bắc khi xưa).

* Pháp mượn của Anh: Meeting / mít tinh, biểu tình, hội họp... short / quần soọc, club / câu lạc bộ, picpocket / kẻ móc túi.

* Pháp mượn của Tàu: Sampan / tam bản (một loại ghe nhỏ đi trên sông rạch), typhon / đại phong (gió to, tức là bão).

* Anh mượn của Pháp: fiance / fiancé, affair / affaire, cooperation (sự hợp tác) baby / bébé (con nít).

* Việt mượn của Pháp: cờ lê mỏ lết / clé à morlette, cà tô mát /catomate, (cà chua), xà phòng hay xà bông / savon, cà phê / café, môbilét / mobylette.

* Việt mượn của Kămpuchia: Sàigòn / Prei-Nokor, Sađéc /Phsar Dek, Vàm Bến Nghé / Kompon Krabei, Châu Đốc / Mott Chrut,.v.v...

Nhiệt tâm của các tác giả nói trên xét ra rất chính đáng. Song, trước hết, ta hãy tìm hiểu coi vì sao tiếng Việt phải mượn ở từ Hán.

Có hai nguyên nhân:

Một là, về địa lý, Việt Nam kề cận Trung Quốc là một nước lớn. Trải qua cả ngàn năm đô hộ, nòi Việt đã bị ảnh hưởng quá lâu nền văn hóa của Trung Quốc. Hai là, trong tiếng Việt có một phần chữ Hán đồng âm và đồng nghĩa với tiếng Việt cho nên khi ta dùng từ Hán thì tự nó, nó hòa đồng luôn với tiếng Việt. Xin đơn cử vài thí dụ:

Việt

Hán

Đọc

Độc

Kiu/gọi (tiếng trong Nam)

Kiu

Chúa

Chủ

Xe

Xa

Lừa

Họp

Hợp

Chè

Trà

Tưởng cũng nên nói thêm rằng tiếng Việt có một điểm đặc biệt hơn các ngôn ngữ khác nhờ ở sự thâu, hóa, thu hút kỳ diệu của tiếng Việt nên bất kì tiếng nước nào khi đã đưa vào tiếng Việt thì sau một thời gian là nó bị đồng hóa luôn với tiếng Việt. Chính điểm đặc biệt ấy đã giữ cho dòng giống Việt qua bao năm lệ thuộc mà cá tính dân tộc vẫn không bị phai mờ. Hơn thế nữa, Việt Nam còn biết sàng lọc biến nền văn hóa của người thành nền văn hóa biệt lập của riêng mình.

Trong quá trình lịch sử đấu tranh bền bỉ của nòi giống Việt cho phép ta khẳng định sự nô lệ văn hóa Tàu trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thể xảy ra. Một sử gia đương thời đã nói:

"(...) Tiếng Việt Nam là một thứ tiếng riêng biệt cũng như chủng tộc Việt Nam là một chủng tộc đặc biệt với các chủng tộc khác. Sự pha trộn về mặt sinh lý và văn hóa không thể là chuyện làm mờ được cái bản sắc, cái cá tính của nó. Sự pha trộn này là một sự kiện tất nhiên giữa các cá nhân, các quốc gia, các dân tộc mỗi ngày một mật thiết do sự giao lưu giữa các nước trong năm châu bốn biển. Tiếng nói của chúng ta bây giờ được phong phú chính là do sự tiếp xúc với nhiều dân tộc Âu, Á, nên tiếng Việt ngày nay phần nào có thể ứng dụng được vào khắp mọi lãnh vực văn hóa, khoa học, chính trị, kinh tế, xã hội v.v....(...)".

Đi sâu vào tiếng nói Việt Nam nguyên thủy - Tiếng Mẹ Đẻ - Ta mới thấy hết được cái hay cái đẹp của tiếng mẹ đẻ thật là vô bờ vô bến không sao nói hết. Những ai thường để ý đến tiếng Việt sẽ dễ dàng nhận ra điều đó chẳng khó khăn gì. Ta chỉ cần đọc lên vài câu ca dao, hát ví, hoặc những bài hát ru con là ta thấy ngay cái hay, cái đẹp, cái vẻ mặn mà tình tứ của tiếng Việt, chẳng hạn:

Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu vội mấy anh ơi!
Công việc đã có chị tôi ở nhà
",

Đó là ngoài dân gian. Còn trong văn chương cũng không hiếm:

Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ đầu ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Hoặc:

Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
"
                              (Kim Vân Kiều)

Trong văn chương Việt, không hiếm những câu lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu như thế. Nói tới tiếng Việt thì không ai là không nhận thấy ngôn từ Việt muôn ngàn màu sắc, thoáng nhìn qua nó ẩn ẩn hiện hiện như một bức tranh thủy mặc. Có lẽ khắp thế giới không có một dân tộc nào lại có một ngữ điệu nhịp nhàng uyển chuyển đầy nhạc điệu như ngôn từ Việt Nam. Tiếng Việt không thể lẫn với bất cứ tiếng nước nào, nhất là khi tiếng đó thốt ra từ cửa miệng các cháu gái và trẻ em Việt, âm thanh thánh thót tưởng chừng như tai ta đang nghe tiếng chim hót vậy. Ấy chính là nhờ tiếng Việt có nhiều dấu khiến tạo thành một âm thanh trầm bỗng réo rắt. Chắc chắn khó có dân tộc nào - dù văn minh có thừa - có thể có được thứ ngôn ngữ chan hòa nhạc điệu đến như vậy. Xin trình bày hai bài thơ Hán - Việt sau đây làm dẫn chứng:

Hán

Lương nhân nhị thập ngô môn hào,
Đầu bút nghiên hề, sự cung đao.
Dục bả liên thành, hiến minh thánh,
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu.
Trượng phu thiên lý chí mã cách,
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao.
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến,
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều...

Việt

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa.
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.

                    (Chinh Phụ Ngâm)

Thật là những áng thơ mộc mạc giản dị mà vẫn không kém vẻ hùng tâm tráng chí đọc lên nghe réo rắt chan hòa âm điệu. Văn chương của người xưa là như vậy. Nhưng bây giờ thì lại khác hẳn. Thực tế cho ta thấy tiếng Việt ngày nay đã thay đổi biến dạng nhiều, khác hẳn thời trước cách mạng bốn lăm. Tiếng Việt ngày nay nghe rất lạ tai, nó gần như xa lạ hẳn với tiếng Việt của ông cha ngày xưa, những giọng hài hòa đôn hậu như đã biến mất hết, và thay vào đó là những tiếng, những câu rất mới: cốt lõi, bức xúc, lây lan, co cụm, mặt bằng, nhân lên, kỹ sư tâm hồn, ngói hóa (nhà được lợp ngói)... với một số lớn từ Hán cũng lạ tai không kém: khẩn trương, tranh thủ, năng động, vi mô, vĩ mô, khả thi, yêu cầu, cơ sở, hộ khẩu, đồng bộ, triệt tiêu, nhất quán, khả năng, v.v... Hồi đầu thoạt nghe ai cũng ngỡ ngàng, song nghe mãi rồi cũng quen, và bây giờ thì nó là... chuyện thường ngày.

Trong những câu tiếng Việt ngày nay, có những câu chỉ còn vài ba tiếng mẹ đẻ, còn thì toàn là chữ Hán:

- "Khu vực sản xuất quốc doanh, hợp doanh và cá thể" (10 Hán 1 Việt)

- "Cảnh cáo và khởi tố bốn cán bộ thoái hóa, biến chất" (10 Hán 2 Việt)

- "Ban hành văn bản để giải phóng các năng lực sản xuất, khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa” (18 Hán 2 Việt)

Không ai có thể chối cãi là nhờ từ Hán nên tiếng Việt được phong phú, tuy vậy ta cũng chưa theo kịp được tiền nhân, ở chỗ lợi dụng từ Hán một cách quá đáng, không đắn đo suy nghĩ. Người xưa, ngược lại, rất sáng suốt, khi dùng từ Hán đã khéo biết lọc lựa, hòa hợp hai thứ tiếng Hán-Việt với nhau để biến tiếng nước người thành ngôn ngữ riêng của mình, và phải chăng đó là tinh thần độc lập của dân tộc. Chẳng hạn như:

Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xét người trong hội đoạn tràng đòi cơn
.
                              (Kim Vân Kiều)

Hoặc

Lò Tạo Hóa đúc khuôn ảo ảnh,
Trai anh hùng và gái thuyền quyên
.
                              (Chiêu Lỳ)

Liều thược dược mơ màng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
.
                              (Cung Oán)

Không chỉ có vậy, từ Hán còn rút gọn được những câu tiếng Việt quá dài, như khi ta muốn nói tiếng "Xuân" là mùa đầu trong một năm, ta chỉ cần nói một tiếng "Xuân" là đủ nghĩa, và cũng vẫn từ này còn đẻ ra vô vàn tiếng Việt hay, đẹp khác: ngày xuân, tuổi xuân, đêm xuân, mưa xuân, xuân dung (nhan sắc), xuân huyên (cha mẹ), xuân sắc (cảnh xuân), xuân phong (gió xuân). Hoặc như các tiếng hạ, thu, đông... cũng thế.

Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm về chỗ biến âm tài tình của giới bình dân. Với họ, chẳng cần mẹo mực, cú pháp, miễn nói sao nghe xuôi tai thuận miệng mà vẫn đủ nghĩa là được: gió bấc, gió nồm (tức gió Bắc, gió Nam), quân tải (quân tử), yêng hùng (anh hùng), đêm giao thừa (ở tiếng giao thời: khoảng thời gian năm cũ / giờ Hợi và năm mới / giờ Tý gặp nhau).

Ta cần hiểu rằng khi xưa cổ nhân đôi khi có xen một vài chữ Hán vào tiếng Việt là muốn mượn từ Hán điểm xuyết cho lời Việt thêm văn vẻ hoa mỹ, chớ thật ra tiếng mẹ đẻ của ta đâu có nghèo. Ngày nay chúng ta đã hiểu lầm ý người xưa, tưởng rằng văn chương Việt càng có nhiều chữ Hán thì câu văn càng bóng bẩy văn hoa hơn, nhưng ngược lại, nó chỉ càng làm cho câu văn thêm phứp tạp, lủng củng, nặng nề. Ta coi một vài cuốn truyện hay đọc một vài bài báo viết theo ngôn ngữ bây giờ thì rõ ngay.

Nhìn chung, trong một câu tiếng Việt ngày nay, từ Hán gần như tiến lên làm chủ, mà tiếng Việt thì lui xuống làm khách. Ta phải thẳng thắn nhìn nhận là chưa có thời kỳ nào ngôn ngữ Việt lại bị từ Hán lấn lướt gần như áp đảo nghiêm trọng tới mức như vậy.

Dù nhập tiếng nước ngoài để làm giàu cho tiếng Việt là điều cần thiết, đôi khi bắt buộc không dùng không được: độc lập, quốc kỳ, quốc ca v.v... Song cũng không thể nào chấp nhận được thứ tiếng Việt lai căng. Thời Mỹ còn đây, người ta rất khó chịu khi thấy chen vào tiếng Việt những câu nghe đến chối tai: năm bờ oăn / number one (cũng tựa như chữ số dzách: nhất hạng), ôkê / đồng ý (tựa chữ d’accord của Pháp), hao pho ren / house for rent (đây có nhà cho thuê)... Ngày nay, trong sách báo thấy từ lô gích / logique (tiếng Pháp: hợp lý) rất hay được nhắc tới. Trong một trang sách (dường như là cuốn Âm mưu Hội Tam Hoàng) chữ lô-gích được lặp đi lặp lại tới hai ba lần.

Trong tiếng Việt hiện thời từ Hán dùng cũng thấy sai, không đúng nghĩa, sai cả mẹo mực:

"Xin tự phong k luật (lời một cán bộ sau khi nhận khuyết điểm). Thiển nghĩ từ này chỉ dùng để nói cái hay, cái tốt.

"Xin báo cáo với các chú, các chị..." (từ 1945 trở về trước, ít ai dùng từ này trong câu chuyện hàng ngày, chỉ dùng trong cơ quan: báo cáo, tờ trình / rapport).

Nước Việt Nam, qua nhiều năm gian khổ, đã giành được độc lập, chủ quyền. Vậy ta cũng nên tìm cách tu sửa, chấn chỉnh lại ngôn ngữ, văn tự để xứng đáng với một quốc gia đã có chủ quyền, không lệ thuộc bất kỳ về phương diện nào và bất kỳ từ đâu. Bởi vậy, trong việc vay mượn từ Hán nói riêng, và từ của các nước khác nói chung, ta nên hết sức thận trọng, không nên du nhập ngoại ngữ tùy hứng, chỉ mượn những chữ thật cần thiết không có không được, để bổ sung cho tiếng Việt. Những từ mượn cũng phải được giới hạn trong một chừng mực nào đó để không làm phương hại đến ngôn ngữ của dân tộc.

Công bằng mà nói thì tiếng Việt ngày nay phong phú hơn xưa gấp bội, nhưng lối diễn tả không gọn ghẽ, không trong sáng, hành văn lủng củng, sai mẹo luật khá nhiều (có thể tìm đọc trong các sách giáo khoa). Lỗi vì ta cho xen nhiều từ Hán quá khiến câu cú trở nên cầu kỳ, rườm rà, thiếu hẳn tích cách tự nhiên, cách biệt với tiếng nói thông thường trong đại chúng. Do đó, lời văn tiếng nói mất đi vẻ sáng sủa nhẹ nhàng là đặc tính của tiếng mẹ đẻ. Phải chăng đây là một sự "lạm phát" từ Hán trong ngôn ngữ Việt?

Vậy thật sự tiếng Việt có nghèo không, có cần phải mượn nhiều từ Hán không, tiếng Việt có đủ lời đủ ý để diễn đạt không?

Xin nêu một vài ví dụ:

"Anh ấy có đủ cơ sở để phản ánh cái điều thiếu lô gích đó". (Thay vì: "Anh ấy có đủ lý lẽ để nói ra điều vô lý đó").

"Không triển khai đồng bộ và triệt để". (thay vì: "Không xúc tiến cùng làm một loạt"). "Không có sức thuyết phục", (thay vì: "không hấp dẫn").

Ta thử liếc mắt qua báo, đài, biểu ngữ, khẩu hiệu cùng những câu chuyện dân chúng nói hằng ngày thì ta giật mình vì tiếng Việt thật sự thật đang trong tình trạng "tứ diện thụ dịch". Chỗ nào cũng chữ Hán, bất cứ một chuyện gì: Một mẩu tin vặt, một mẩu đối thoại ngắn giữa mọi người trong cơ quan, ngoài xã hội, phường, khóm, gia đình... Thậm chí có những việc rất thường, thuộc loại "Tin vặt", chỉ cần vài tiếng Việt là đủ. Thí dụ: "Kịp thời dập tắt ngọn lửa", thì người ta lại nói: "kịp thời khai trin phương án cứu chữa..." (Tuổi Trẻ, tháng 2/88)...

Ngoài những chữ đã nêu trên, có một số từ thường được dùng nhiều nhất:

a/ (Xin coi các sách báo hàng ngày)

b/ như: lao động, ra quân, lô gích, chiến sĩ, khả năng, cơ sở, vệ tinh, phi vụ, yêu cầu...

Sự lộng hành quá mức của từ Hán trong ngôn ngữ Việt cũng như lối hành văn quá dễ dãi, tùy tiện, nhiều lúc rất trái tai, đã gây không ít bực dọc.

Thiết nghĩ, ngoại trừ những văn bản có tính cách luật định (hiến pháp, tư pháp, hành chánh, ngoại giao...) bắt buộc phải mượn một số từ Hán, còn hết thảy những gì có thể diễn đạt bằng tiếng mẹ đẻ thì nên cố gắng duy trì, nếu không thì tới một thời gian nào đó tiếng Việt thuần túy của ta (TIẾNG MẸ ĐẺ) sẽ lần lần biến mất. Phải mạnh dạn gạt bỏ thành kiến "Có nhiều từ Hán chữ nghĩa Việt mới hay". Với một nước đã hoàn toàn độc lập, quan niệm đó không còn hợp thời. Phải kiên quyết trút bỏ những gì không đáng giữ và chỉ duy trì những cái xét có lợi cho con cháu ta nhất. Nói tóm lại, vì tiền đồ dân tộc, ta hãy hô hào khuyến khích một phong trào "TẤT CẢ CHO TIẾNG MẸ ĐẺ”, phổ biến sâu rộng ý niệm đó trong toàn dân, cả ở trong và ngoài nước. Đó cũng là trách nhiệm chung của mọi người đối với quốc gia dân tộc...

Để kết luận cho bài này, tác giả nay tuổi đời gần xế bóng, chỉ xin phép được nhắc lại lời một học giả đã nói cách đây già nửa thế kỷ:

"Làm người Việt Nam phải nên yêu, nên quý tiếng nước mình. Phải đặt quốc văn của mình lên trên cả chữ Tây chữ Tàu. Nhưng yêu quý tiếng nước mình không có nghĩa là ruồng bỏ tiếng nước ngoài. Yêu quý tiếng nước mình là phải khéo lợi dụng tiếng nước ngoài để làm cho tiếng nước mình giàu có thêm lên. Cho nên những người vì "thương tiếng nước nhà" mà muốn bài trừ chữ Hán là tỏ ra ý kiến thấp hẹp vậy".

N.Đ.D.
(TCSH51/09&10-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...