Nên hay không nên loại bỏ chữ Hán ra khỏi ngôn ngữ Việt

10:33 16/02/2022

DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ

Câu hỏi trên đây, từ trước đến nay đã làm bận tâm không ít những người hằng quan tâm đến tương lai tiếng Việt, và mối bận tâm ấy đã được vài ba tác giả đề cập trên báo.

 

Ảnh: internet

Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ (số ngày 14/01/88) của một tác giả đả kích việc dùng chữ Hán trên các thiệp cưới. Còn bài kia của một vị khác đăng từ thời chế độ cũ trên báo Thần Phong (Sài Gòn, tháng 9/1970), nhan đề "Thử tìm lời Việt so lời Hán" cũng phản đối kịch liệt việc cho từ Hán vào văn thơ Việt, trong đó tác giả hô hào mọi người kiên quyết "Lột xác chữ Việt", gạt bỏ tàn tích "nô lệ văn chương Tàu". Tác giả đòi viết lại Kiều, Cung oán, Chinh phụ ngâm... cùng hết thảy các văn thơ có từ thời dựng nước bằng toàn bộ chữ quốc ngữ. Thí dụ như trong truyện Kiều, tác giả đòi sửa lại như sau:

- Mấy tên thủy thủ ác danh

Là: Mấy thằng chèo lái gớm tên

- Trải bao thỏ lặn ác tà... - Trải bao thỏ lặn quạ nghiêng...

Ý kiến của các tác giả nêu trong hai bài báo nói trên đúng hay sai thì cũng đều ý tốt cả. Tuy nhiên, chuyện đó xin nhường cho các chuyên gia khảo cứu về ngôn ngữ học, kẻ viết bài này không đủ khả năng bàn chuyện đó, mà chỉ muốn nói tới việc du nhập từ Hán vào ngôn ngữ Việt sao cho hợp tình hợp lý mà thôi.

Như ta đã biết, việc vay mượn tiếng nói của nước khác làm ngôn ngữ riêng cho nước mình thì hầu như nước nào cũng có. Không nói Việt Nam, một số quốc gia được coi là tiến bộ như Anh, Pháp... cũng đều có sự vay mượn qua lại tiếng nói của nhau, nghĩa là tiếng nói nguyên thủy của các dân tộc ấy ít nhiều đều có pha trộn tiếng nói của nước khác. Nhìn chung, ta còn nhận thấy tiếng nói của họ phần lớn gốc La Tinh, Hy Lạp. Sau đây là vài ba thí dụ:

* Pháp mượn của Việt: Congay / con gái, Gnaque / nhà quê, Sordiailles / sóc đĩa (một hình thức cờ bạc rất thịnh hành ở miền Bắc khi xưa).

* Pháp mượn của Anh: Meeting / mít tinh, biểu tình, hội họp... short / quần soọc, club / câu lạc bộ, picpocket / kẻ móc túi.

* Pháp mượn của Tàu: Sampan / tam bản (một loại ghe nhỏ đi trên sông rạch), typhon / đại phong (gió to, tức là bão).

* Anh mượn của Pháp: fiance / fiancé, affair / affaire, cooperation (sự hợp tác) baby / bébé (con nít).

* Việt mượn của Pháp: cờ lê mỏ lết / clé à morlette, cà tô mát /catomate, (cà chua), xà phòng hay xà bông / savon, cà phê / café, môbilét / mobylette.

* Việt mượn của Kămpuchia: Sàigòn / Prei-Nokor, Sađéc /Phsar Dek, Vàm Bến Nghé / Kompon Krabei, Châu Đốc / Mott Chrut,.v.v...

Nhiệt tâm của các tác giả nói trên xét ra rất chính đáng. Song, trước hết, ta hãy tìm hiểu coi vì sao tiếng Việt phải mượn ở từ Hán.

Có hai nguyên nhân:

Một là, về địa lý, Việt Nam kề cận Trung Quốc là một nước lớn. Trải qua cả ngàn năm đô hộ, nòi Việt đã bị ảnh hưởng quá lâu nền văn hóa của Trung Quốc. Hai là, trong tiếng Việt có một phần chữ Hán đồng âm và đồng nghĩa với tiếng Việt cho nên khi ta dùng từ Hán thì tự nó, nó hòa đồng luôn với tiếng Việt. Xin đơn cử vài thí dụ:

Việt

Hán

Đọc

Độc

Kiu/gọi (tiếng trong Nam)

Kiu

Chúa

Chủ

Xe

Xa

Lừa

Họp

Hợp

Chè

Trà

Tưởng cũng nên nói thêm rằng tiếng Việt có một điểm đặc biệt hơn các ngôn ngữ khác nhờ ở sự thâu, hóa, thu hút kỳ diệu của tiếng Việt nên bất kì tiếng nước nào khi đã đưa vào tiếng Việt thì sau một thời gian là nó bị đồng hóa luôn với tiếng Việt. Chính điểm đặc biệt ấy đã giữ cho dòng giống Việt qua bao năm lệ thuộc mà cá tính dân tộc vẫn không bị phai mờ. Hơn thế nữa, Việt Nam còn biết sàng lọc biến nền văn hóa của người thành nền văn hóa biệt lập của riêng mình.

Trong quá trình lịch sử đấu tranh bền bỉ của nòi giống Việt cho phép ta khẳng định sự nô lệ văn hóa Tàu trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thể xảy ra. Một sử gia đương thời đã nói:

"(...) Tiếng Việt Nam là một thứ tiếng riêng biệt cũng như chủng tộc Việt Nam là một chủng tộc đặc biệt với các chủng tộc khác. Sự pha trộn về mặt sinh lý và văn hóa không thể là chuyện làm mờ được cái bản sắc, cái cá tính của nó. Sự pha trộn này là một sự kiện tất nhiên giữa các cá nhân, các quốc gia, các dân tộc mỗi ngày một mật thiết do sự giao lưu giữa các nước trong năm châu bốn biển. Tiếng nói của chúng ta bây giờ được phong phú chính là do sự tiếp xúc với nhiều dân tộc Âu, Á, nên tiếng Việt ngày nay phần nào có thể ứng dụng được vào khắp mọi lãnh vực văn hóa, khoa học, chính trị, kinh tế, xã hội v.v....(...)".

Đi sâu vào tiếng nói Việt Nam nguyên thủy - Tiếng Mẹ Đẻ - Ta mới thấy hết được cái hay cái đẹp của tiếng mẹ đẻ thật là vô bờ vô bến không sao nói hết. Những ai thường để ý đến tiếng Việt sẽ dễ dàng nhận ra điều đó chẳng khó khăn gì. Ta chỉ cần đọc lên vài câu ca dao, hát ví, hoặc những bài hát ru con là ta thấy ngay cái hay, cái đẹp, cái vẻ mặn mà tình tứ của tiếng Việt, chẳng hạn:

Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu vội mấy anh ơi!
Công việc đã có chị tôi ở nhà
",

Đó là ngoài dân gian. Còn trong văn chương cũng không hiếm:

Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ đầu ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Hoặc:

Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
"
                              (Kim Vân Kiều)

Trong văn chương Việt, không hiếm những câu lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu như thế. Nói tới tiếng Việt thì không ai là không nhận thấy ngôn từ Việt muôn ngàn màu sắc, thoáng nhìn qua nó ẩn ẩn hiện hiện như một bức tranh thủy mặc. Có lẽ khắp thế giới không có một dân tộc nào lại có một ngữ điệu nhịp nhàng uyển chuyển đầy nhạc điệu như ngôn từ Việt Nam. Tiếng Việt không thể lẫn với bất cứ tiếng nước nào, nhất là khi tiếng đó thốt ra từ cửa miệng các cháu gái và trẻ em Việt, âm thanh thánh thót tưởng chừng như tai ta đang nghe tiếng chim hót vậy. Ấy chính là nhờ tiếng Việt có nhiều dấu khiến tạo thành một âm thanh trầm bỗng réo rắt. Chắc chắn khó có dân tộc nào - dù văn minh có thừa - có thể có được thứ ngôn ngữ chan hòa nhạc điệu đến như vậy. Xin trình bày hai bài thơ Hán - Việt sau đây làm dẫn chứng:

Hán

Lương nhân nhị thập ngô môn hào,
Đầu bút nghiên hề, sự cung đao.
Dục bả liên thành, hiến minh thánh,
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu.
Trượng phu thiên lý chí mã cách,
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao.
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến,
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều...

Việt

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa.
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.

                    (Chinh Phụ Ngâm)

Thật là những áng thơ mộc mạc giản dị mà vẫn không kém vẻ hùng tâm tráng chí đọc lên nghe réo rắt chan hòa âm điệu. Văn chương của người xưa là như vậy. Nhưng bây giờ thì lại khác hẳn. Thực tế cho ta thấy tiếng Việt ngày nay đã thay đổi biến dạng nhiều, khác hẳn thời trước cách mạng bốn lăm. Tiếng Việt ngày nay nghe rất lạ tai, nó gần như xa lạ hẳn với tiếng Việt của ông cha ngày xưa, những giọng hài hòa đôn hậu như đã biến mất hết, và thay vào đó là những tiếng, những câu rất mới: cốt lõi, bức xúc, lây lan, co cụm, mặt bằng, nhân lên, kỹ sư tâm hồn, ngói hóa (nhà được lợp ngói)... với một số lớn từ Hán cũng lạ tai không kém: khẩn trương, tranh thủ, năng động, vi mô, vĩ mô, khả thi, yêu cầu, cơ sở, hộ khẩu, đồng bộ, triệt tiêu, nhất quán, khả năng, v.v... Hồi đầu thoạt nghe ai cũng ngỡ ngàng, song nghe mãi rồi cũng quen, và bây giờ thì nó là... chuyện thường ngày.

Trong những câu tiếng Việt ngày nay, có những câu chỉ còn vài ba tiếng mẹ đẻ, còn thì toàn là chữ Hán:

- "Khu vực sản xuất quốc doanh, hợp doanh và cá thể" (10 Hán 1 Việt)

- "Cảnh cáo và khởi tố bốn cán bộ thoái hóa, biến chất" (10 Hán 2 Việt)

- "Ban hành văn bản để giải phóng các năng lực sản xuất, khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa” (18 Hán 2 Việt)

Không ai có thể chối cãi là nhờ từ Hán nên tiếng Việt được phong phú, tuy vậy ta cũng chưa theo kịp được tiền nhân, ở chỗ lợi dụng từ Hán một cách quá đáng, không đắn đo suy nghĩ. Người xưa, ngược lại, rất sáng suốt, khi dùng từ Hán đã khéo biết lọc lựa, hòa hợp hai thứ tiếng Hán-Việt với nhau để biến tiếng nước người thành ngôn ngữ riêng của mình, và phải chăng đó là tinh thần độc lập của dân tộc. Chẳng hạn như:

Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xét người trong hội đoạn tràng đòi cơn
.
                              (Kim Vân Kiều)

Hoặc

Lò Tạo Hóa đúc khuôn ảo ảnh,
Trai anh hùng và gái thuyền quyên
.
                              (Chiêu Lỳ)

Liều thược dược mơ màng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
.
                              (Cung Oán)

Không chỉ có vậy, từ Hán còn rút gọn được những câu tiếng Việt quá dài, như khi ta muốn nói tiếng "Xuân" là mùa đầu trong một năm, ta chỉ cần nói một tiếng "Xuân" là đủ nghĩa, và cũng vẫn từ này còn đẻ ra vô vàn tiếng Việt hay, đẹp khác: ngày xuân, tuổi xuân, đêm xuân, mưa xuân, xuân dung (nhan sắc), xuân huyên (cha mẹ), xuân sắc (cảnh xuân), xuân phong (gió xuân). Hoặc như các tiếng hạ, thu, đông... cũng thế.

Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm về chỗ biến âm tài tình của giới bình dân. Với họ, chẳng cần mẹo mực, cú pháp, miễn nói sao nghe xuôi tai thuận miệng mà vẫn đủ nghĩa là được: gió bấc, gió nồm (tức gió Bắc, gió Nam), quân tải (quân tử), yêng hùng (anh hùng), đêm giao thừa (ở tiếng giao thời: khoảng thời gian năm cũ / giờ Hợi và năm mới / giờ Tý gặp nhau).

Ta cần hiểu rằng khi xưa cổ nhân đôi khi có xen một vài chữ Hán vào tiếng Việt là muốn mượn từ Hán điểm xuyết cho lời Việt thêm văn vẻ hoa mỹ, chớ thật ra tiếng mẹ đẻ của ta đâu có nghèo. Ngày nay chúng ta đã hiểu lầm ý người xưa, tưởng rằng văn chương Việt càng có nhiều chữ Hán thì câu văn càng bóng bẩy văn hoa hơn, nhưng ngược lại, nó chỉ càng làm cho câu văn thêm phứp tạp, lủng củng, nặng nề. Ta coi một vài cuốn truyện hay đọc một vài bài báo viết theo ngôn ngữ bây giờ thì rõ ngay.

Nhìn chung, trong một câu tiếng Việt ngày nay, từ Hán gần như tiến lên làm chủ, mà tiếng Việt thì lui xuống làm khách. Ta phải thẳng thắn nhìn nhận là chưa có thời kỳ nào ngôn ngữ Việt lại bị từ Hán lấn lướt gần như áp đảo nghiêm trọng tới mức như vậy.

Dù nhập tiếng nước ngoài để làm giàu cho tiếng Việt là điều cần thiết, đôi khi bắt buộc không dùng không được: độc lập, quốc kỳ, quốc ca v.v... Song cũng không thể nào chấp nhận được thứ tiếng Việt lai căng. Thời Mỹ còn đây, người ta rất khó chịu khi thấy chen vào tiếng Việt những câu nghe đến chối tai: năm bờ oăn / number one (cũng tựa như chữ số dzách: nhất hạng), ôkê / đồng ý (tựa chữ d’accord của Pháp), hao pho ren / house for rent (đây có nhà cho thuê)... Ngày nay, trong sách báo thấy từ lô gích / logique (tiếng Pháp: hợp lý) rất hay được nhắc tới. Trong một trang sách (dường như là cuốn Âm mưu Hội Tam Hoàng) chữ lô-gích được lặp đi lặp lại tới hai ba lần.

Trong tiếng Việt hiện thời từ Hán dùng cũng thấy sai, không đúng nghĩa, sai cả mẹo mực:

"Xin tự phong k luật (lời một cán bộ sau khi nhận khuyết điểm). Thiển nghĩ từ này chỉ dùng để nói cái hay, cái tốt.

"Xin báo cáo với các chú, các chị..." (từ 1945 trở về trước, ít ai dùng từ này trong câu chuyện hàng ngày, chỉ dùng trong cơ quan: báo cáo, tờ trình / rapport).

Nước Việt Nam, qua nhiều năm gian khổ, đã giành được độc lập, chủ quyền. Vậy ta cũng nên tìm cách tu sửa, chấn chỉnh lại ngôn ngữ, văn tự để xứng đáng với một quốc gia đã có chủ quyền, không lệ thuộc bất kỳ về phương diện nào và bất kỳ từ đâu. Bởi vậy, trong việc vay mượn từ Hán nói riêng, và từ của các nước khác nói chung, ta nên hết sức thận trọng, không nên du nhập ngoại ngữ tùy hứng, chỉ mượn những chữ thật cần thiết không có không được, để bổ sung cho tiếng Việt. Những từ mượn cũng phải được giới hạn trong một chừng mực nào đó để không làm phương hại đến ngôn ngữ của dân tộc.

Công bằng mà nói thì tiếng Việt ngày nay phong phú hơn xưa gấp bội, nhưng lối diễn tả không gọn ghẽ, không trong sáng, hành văn lủng củng, sai mẹo luật khá nhiều (có thể tìm đọc trong các sách giáo khoa). Lỗi vì ta cho xen nhiều từ Hán quá khiến câu cú trở nên cầu kỳ, rườm rà, thiếu hẳn tích cách tự nhiên, cách biệt với tiếng nói thông thường trong đại chúng. Do đó, lời văn tiếng nói mất đi vẻ sáng sủa nhẹ nhàng là đặc tính của tiếng mẹ đẻ. Phải chăng đây là một sự "lạm phát" từ Hán trong ngôn ngữ Việt?

Vậy thật sự tiếng Việt có nghèo không, có cần phải mượn nhiều từ Hán không, tiếng Việt có đủ lời đủ ý để diễn đạt không?

Xin nêu một vài ví dụ:

"Anh ấy có đủ cơ sở để phản ánh cái điều thiếu lô gích đó". (Thay vì: "Anh ấy có đủ lý lẽ để nói ra điều vô lý đó").

"Không triển khai đồng bộ và triệt để". (thay vì: "Không xúc tiến cùng làm một loạt"). "Không có sức thuyết phục", (thay vì: "không hấp dẫn").

Ta thử liếc mắt qua báo, đài, biểu ngữ, khẩu hiệu cùng những câu chuyện dân chúng nói hằng ngày thì ta giật mình vì tiếng Việt thật sự thật đang trong tình trạng "tứ diện thụ dịch". Chỗ nào cũng chữ Hán, bất cứ một chuyện gì: Một mẩu tin vặt, một mẩu đối thoại ngắn giữa mọi người trong cơ quan, ngoài xã hội, phường, khóm, gia đình... Thậm chí có những việc rất thường, thuộc loại "Tin vặt", chỉ cần vài tiếng Việt là đủ. Thí dụ: "Kịp thời dập tắt ngọn lửa", thì người ta lại nói: "kịp thời khai trin phương án cứu chữa..." (Tuổi Trẻ, tháng 2/88)...

Ngoài những chữ đã nêu trên, có một số từ thường được dùng nhiều nhất:

a/ (Xin coi các sách báo hàng ngày)

b/ như: lao động, ra quân, lô gích, chiến sĩ, khả năng, cơ sở, vệ tinh, phi vụ, yêu cầu...

Sự lộng hành quá mức của từ Hán trong ngôn ngữ Việt cũng như lối hành văn quá dễ dãi, tùy tiện, nhiều lúc rất trái tai, đã gây không ít bực dọc.

Thiết nghĩ, ngoại trừ những văn bản có tính cách luật định (hiến pháp, tư pháp, hành chánh, ngoại giao...) bắt buộc phải mượn một số từ Hán, còn hết thảy những gì có thể diễn đạt bằng tiếng mẹ đẻ thì nên cố gắng duy trì, nếu không thì tới một thời gian nào đó tiếng Việt thuần túy của ta (TIẾNG MẸ ĐẺ) sẽ lần lần biến mất. Phải mạnh dạn gạt bỏ thành kiến "Có nhiều từ Hán chữ nghĩa Việt mới hay". Với một nước đã hoàn toàn độc lập, quan niệm đó không còn hợp thời. Phải kiên quyết trút bỏ những gì không đáng giữ và chỉ duy trì những cái xét có lợi cho con cháu ta nhất. Nói tóm lại, vì tiền đồ dân tộc, ta hãy hô hào khuyến khích một phong trào "TẤT CẢ CHO TIẾNG MẸ ĐẺ”, phổ biến sâu rộng ý niệm đó trong toàn dân, cả ở trong và ngoài nước. Đó cũng là trách nhiệm chung của mọi người đối với quốc gia dân tộc...

Để kết luận cho bài này, tác giả nay tuổi đời gần xế bóng, chỉ xin phép được nhắc lại lời một học giả đã nói cách đây già nửa thế kỷ:

"Làm người Việt Nam phải nên yêu, nên quý tiếng nước mình. Phải đặt quốc văn của mình lên trên cả chữ Tây chữ Tàu. Nhưng yêu quý tiếng nước mình không có nghĩa là ruồng bỏ tiếng nước ngoài. Yêu quý tiếng nước mình là phải khéo lợi dụng tiếng nước ngoài để làm cho tiếng nước mình giàu có thêm lên. Cho nên những người vì "thương tiếng nước nhà" mà muốn bài trừ chữ Hán là tỏ ra ý kiến thấp hẹp vậy".

N.Đ.D.
(TCSH51/09&10-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.