Nàng thơ đã chết: báo cáo về tình hình thi ca tại Mỹ

10:12 04/11/2008
TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

Làm thơ và thưởng thức thơ là một sinh hoạt trí thức phổ biến trong nếp sống văn hóa Việt . Người Việt ta khi ra định cư ở nước ngoài cũng mang theo ít nhiều hành trang văn hoá này, mặc dầu hiện nay lòng yêu thích thi ca chỉ còn được biểu hiện rõ nét ở những người lớn tuổi, nói chung là những người khi rời quê hương cũng đã được trang bị một ít vốn liếng Việt văn, tiếp thu được từ chương trình trung học, khả dĩ cảm nhận thấm thía khi nghe câu hát, “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời...” cuả nhạc sĩ Phạm Duy. Nhan nhản trong các tạp chí bày bán  hoặc tặng biếu ở các khu thương mại hoặc trên các báo điện tử của người Việt đều có trang thơ. Trong các cộng đồng người Việt rải rác trên đất Mỹ nếu chịu tò mò một chút chúng ta cũng có thể phát hiện một số hội thơ. Nắm bắt được tấm thịnh tình người Việt dành cho thi ca, Bill Clinton đã chịu khó soạn bài trước khi sang thăm nước ta vào năm 2000 và ông đã nhắc đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong một bài diễn văn đọc trong chuyến công du này.

Với tình yêu thi ca của một tâm hồn Việt , liệu chúng ta có thể “lấy bụng ta để suy ra bụng người” được không? Trong bài này, chúng tôi sẽ điểm xuyết tình hình thi ca hiện nay tại Mỹ, hay đặt vấn đề một cách khác: Người Mỹ có còn thích đọc thơ hay không?
Nói ra thì nghe thật bẽ bàng, nhưng đối với người Mỹ, dù là người ở ngoài đường phố hay là một trí thức chuyên gia, thi ca là một loại hình văn chương đang trên đường đi tới chỗ diệt vong. Nàng Thơ đang vào cõi chết, nhưng chẳng mấy ai “sẵn mối động tâm”. Khó mà tưởng tượng được người Mỹ có thể sống trong một thế giới không có phim ảnh, kịch nghệ, hài, tiểu thuyết và âm nhạc; nhưng nếu phải ở trong một thế giới thiếu vắng thi ca thì họ vẫn điềm nhiên theo đuổi hạnh phúc trần thế, chẳng có gì băn khoăn thắc mắc. Sau khi rời ghế nhà trường, là nơi bị cưỡng chế phải học thơ văn, cả hàng chục năm trong cuộc đời trưởng thành của một người Mỹ chưa chắc đã có mấy ai chịu cầm lấy một tập thơ hay một bài thơ để “thưởng thức”. Họ ngại phải động não để giải mã những biểu tượng (symbols) hay ám từ (allusion) rải rác trong một bài thơ. Từ người lao động thiếu kỹ năng đến các nhà khoa bảng, chẳng mấy ai có đủ tự tin để kể được tên một thi sĩ lớn hiện đang còn sống, mặc dù ai cũng có thể nói vanh vách tên các cầu thủ, các tài tử điện ảnh, các tỉ phú, các tiểu thuyết gia mà họ hâm mộ. Trong phép ứng xử với giới trẻ, ta lại càng không nên đem thi ca ra mà luận bàn với họ. Xin đừng vội nghĩ người Mỹ không thích đọc sách, mà nên nghĩ ngược lại. Trên ghế đá công viên, trên máy bay, trên các phương tiện di chuyển công cộng, số người có quyển sách trên tay vẫn là con số đáng kể. (Mỗi lần đi xa bằng phương tiện báy bay hay xe lửa, chúng tôi luôn luôn có ấn tượng về không khí yên ắng chung quanh, trong đó đa số hành khách chăm chú đọc sách chứ không chuyện trò trao đổi ồn ào với người ngồi bên cạnh). Trong tuần báo Newsweek, số ra ngày 5 tháng 5, 2003, Bruce Hexter đã bày tỏ nỗi bức xúc với các nhà thơ: “Là một người đam mê đọc sách, tôi thậm ghét việc đọc thơ. Mỗi lần phải cày qua các ngụ từ, các biểu tượng [trong một bài thơ] là một lần tôi lại thắc mắc là tại sao các ông thi sĩ mắc dịch (the damn poets) không chỉ việc nói huỵch toẹt cái điều họ muốn nói ra”.

Sự chuyển biến trong đời sống văn hóa của xã hội Mỹ trong mấy thập niên qua không có gì thuận lợi cho thi ca. Đã xa rồi cái thời người ta trải chiếu hoa cho các nhà thơ. Hình ảnh thi sĩ Robert Frost được mời đọc thơ trong ngày John F. Kennedy nhậm chức tổng thống đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của nỗ lực “chiêu hiền đãi sĩ”, xiểng dương văn hóa, khoa học kỹ thuật, hướng về một “tân biên cương”, qui tụ dưới trướng cuả mình những “bộ óc ưu việt” (“the best and the brightest.”.). Người Mỹ thường gọi thời kỳ cuả Kennedy là Camelot, theo tên triều đình Camelot của vua Arthur trong huyền sử nước Anh, với thẩm mỹ và giác ngộ trí tuệ được đề cao và lý tưởng hoá. (Thi ca được coi như là một loại hình nghệ thuật đòi hỏi sự vận dụng của một tri thức tổng hợp, theo đó người thưởng thức thi ca phải có trình độ nắm bắt những biểu tượng, hiểu được các điển tích, ngụ từ, nhằm giải mã thông điệp của một bài thơ).

Nhưng bước qua hai thập niên 70 và 80, văn hoá Mỹ trở nên chân phương (prosaic) hẳn ra so với thời kỳ hào nhoáng và đỏm dáng của J. F. Kennedy. Tính hàm hồ, phức tạp và nghịch lý bị thất sủng; trong khi sự trong sáng giản dị được đề cao trong lãnh vực truyền thông. Đây là thời kỳ mà văn hoá Mỹ ôm lấy nghĩa đen hơn là chạy theo nghĩa bóng (the literalization of ). Người ta đâm ra dị ứng với quan niệm “ý tại ngôn ngoại, ý tưởng nằm ngoài ngôn ngữ”, một thuộc tính  của thi ca mà trước đây từng được nhiều nhà thơ cao rao. Như ý kiến của William Butler Yeats: (1865-1939), “Những gì có thể giải thích  thì không còn là thi ca, What can be explained is not poetry.” Hay phát biểu của Archibald MacLeish (1892-1982), “Một bài thơ phải không có lời/ Như là đường bay của chim./ A poem should be wordless/ As the flight of birds”. Lối tư duy này của thi ca  không phục vụ cho yêu cầu truyền thông đại chúng. Không mấy chính trị gia trong thời kỳ này còn trích dẫn thơ cuả các thi sĩ đương thời trong diễn văn của mình và một thiểu số rất nhỏ các thi sĩ thành danh cũng dần dần khuất núi hay vắng bóng trên văn đàn. Thật ra thập niên 60 đã chứng kiến sự ra đi của ba nhà thơ lớn là Robert Frost (1874-1963), Carl Sandburg (1878-1967) và Langston Hughes (1921-1967); tiếng chuông chiêu hồn cuả những vị này cũng là hồi chuông báo tử cho thi ca Mỹ.

Vào khoảng thập niên 90, Nàng Thơ coi như đã trút xong hơi thở cuối cùng trên xứ Cờ Hoa. Độc giả yêu thơ, như phần lớn người Việt ta, chắc sẽ bàng hoàng và cho đây là một phát biểu ngoa ngụy. Dẫu nói thế nào đi nữa, không ai có thể bắt người khác phải tin vào một điều gì mà không cần thực chứng. Thực chứng đó là: trong các loại hình văn học nghệ thuật hiện nay ở Mỹ, thi ca có lẽ là loại hình có số người viết vượt quá xa số người chịu bỏ thì giờ ra để đọc. Có lẽ bất cứ ai cũng viết được một bài thơ “con cóc”. Nhưng muốn thưởng thức một bài thơ hay, như đã trình bày ở trên, người đọc phải có một trình độ tri thức tổng hợp và phải có đủ đam mê. Trong thời đại thông tin internet này, không ai có đủ kiên trì để ngồi đọc một bài thơ đến hàng chục lần trước khi âm điệu thấm vào cảm quan và ý nghĩa đi vào tâm thức. Không ai muốn những con chữ đến với mình như nước đổ lá môn; người ta  đòi hỏi ý nghĩa một bài thơ phải triển khai mạch lạc, vừa rõ ràng vừa nhanh nhạy. Người đọc muốn một thể văn có tính tự sự (narrative-driven), một loại hình nghệ thuật tự lập (stand-alone art), không đòi hỏi người thưởng ngọan phải có trình độ để nắm bắt một văn cảnh quá rộng lớn như thi ca. 

Cuộc sống ngày càng đa dạng và con người bị phân tán mỏng bởi nhiều lực hấp dẫn khác nhau, ngay cả trong sinh hoạt văn nghệ. Điện ảnh, âm nhạc, tiểu thuyết, kịch nghệ, thông tin internet và sự nở rộ các phương tiện truyền thông bằng văn nói đã dành mất chỗ đứng của thi ca. Đối với tuyệt đại đa số độc giả Mỹ, có lẽ thi ca đã  làm xong vai trò lịch sử của nó và đang đi vào màn đêm của dĩ vãng. Thi ca được thiết kế cho một thời đại trong đó người ta có đủ nhàn tản và đam mê để trau chuốt, nâng niu, nhâm nhi  từng con chữ, mà nhiên hậu đã đưa nghệ thuật này đến dạng thức cao nhất của văn viết. “Thi ca là nghệ thuật lựa chọn và sắp đặt những biểu tượng theo một cách thế có thể kích thích trí tưởng tượng mạnh mẽ và kỳ thú nhất”, như William Current Bryant đã nói. Thi ca trên hết là nơi tập trung sức mạnh của ngôn ngữ, có khả năng diễn đạt mối quan hệ thiết tha nhất giữa nội tâm và ngoại giới. Nếu đọc những bài thơ giá trị được viết ra trong thời vàng son của thi ca, nhiều người vẫn cảm nhận sức mạnh đích thực của thi ca - những bài thơ có khả năng đánh động tim óc của người đọc trong những cách thế mà các nhà làm phim hiện nay chỉ biết mơ tưởng mà thôi. Thi ca là phương tiện chuyển tải con người đến những tầng cao cuả cảm thức, cao hơn bất cứ một loại hình nghệ thuật nào có thể làm được trong chức năng này. Nhưng chính trên đỉnh cao, thi ca trở nên cô đơn và đánh mất người thưởng thức, vì thi ca đòi hỏi quá nhiều ở người làm thơ cũng như ngưòi đọc thơ.

Nàng Thơ (Mỹ) đã chết, nhưng chẳng phải là với “cảnh hương tàn bàn lạnh” đâu. Trong môn văn ở trung học vẫn còn một tiết mục mà học sinh không mấy ưa, đó là thi ca. Trong văn giới vẫn còn lác đác một số nỗ lực, dù vô vọng, nhằm dành lại chỗ đứng cho thi ca trên bầu trời nghệ thuật Mỹ. Tháng 11 năm 2003 bà tỉ phú Ruth Lilly, 87 tuổi, người thừa hưởng gia tài  kếch sù của nhà đại tư bản ngành dược Eli Lilly, đã làm một nghĩa cử vô tiền khoáng hậu là trao tặng 100 triệu đô-la cho nguyệt san Thi Ca (Poetry Magazine), một tờ báo có uy tín nhưng đã từ chối đăng thơ của bà qua nhiều năm.. Nhưng bà không lấy đó làm điều, mục đích của bà là phục sinh một loại hình nghệ thuật đã mất hậu thuẫn và sự quan tâm của quần chúng. Trước khi có được quà tặng này, tờ báo trả nhuận bút mỗi dòng thơ được đăng là 2 đô-la, dù tác giả là một nhà thơ từng được giải Nobel đi nữa. Sự thù laọ này quả đã phản ánh lời than thở cuả thi sĩ Tản Đà của ta ở đầu thế kỷ trước, “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”. Dù có những tấm lòng vàng như bà Lilly, nhưng không mấy ai tin tưởng  tiền bạc có thể thay đổi bộ mặt của một loại hình nghệ thuật không đáp ứng yêu cầu thưởng thức cuả đại chúng.
T.N.C

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.