Mười ngày

15:04 20/10/2017

TRẦN BĂNG KHUÊ

1. Nàng quyết định không rời khỏi căn phòng hẹp của mình. Nàng chán cái cảm giác phải kéo tấm rèm mỗi ngày cạnh cửa sổ đầu giường, lúc mười hai giờ, khi nàng tỉnh giấc.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Những cái bóng mờ kéo rê đôi mắt nàng theo một giấc mơ kì lạ khiến nàng không thể, và không muốn choàng dậy. Nàng kéo tấm rèm lần nữa, như muốn chối từ ánh sáng nửa ngày, phớt lờ thời gian. Việc đó thật đáng sợ, với nàng, ở cái tuổi quá ba mươi này.

Nàng sợ thời gian. Thời gian chẳng sợ ai.

Đôi chân thích chơi trò xê dịch đã ngán ngẩm với chuyện bay nhảy tìm kiếm tự do tuyệt đối. Môi nàng đã bắt đầu khô quắt, nhợt nhạt xám. Nàng tự ngắm trong gương và thấy trái tim trĩu nặng. Trái tim nàng hoang mang về tất thảy mọi thứ đã qua, tốt đẹp hay meo mốc, điều gì đang xảy đến. Những mất mát kì quặc đầy mặc tưởng đóng vẩy thành từng lớp ký ức không tên, không địa chỉ, hay mỏ neo để nhớ về. Một khuôn mặt non nớt trẻ thơ của ai đó đã rất thân thiết với nàng vừa mới rời bỏ cuộc đời này, rời bỏ nàng. Những xác chết trẻ nằm trong huyệt mộ sâu và lạnh. Nàng cảm thấy nghẹt thở khi kí ức đóng vẩy bỗng dưng tróc ra và sưng tấy. Bất giác nàng nhớ đến gã đàn ông từng là gã đàn ông đời nàng khi nghe tin mẹ chết. Gã không khóc, như một kẻ xa lạ.

Hết nửa ngày ánh sáng, những ý nghĩ về cái chết vây bủa. Nàng chỉ còn lại nửa ngày đêm tối để ngắm mình qua gương và nhốt mình trong căn phòng hẹp. Rồi, nửa ngày ánh sáng thứ hai, thứ ba, thứ tư, những ngày sau nữa, cho đến nửa ngày ánh sáng thứ mười mới được dừng lại được, sự việc điên rồ mới bắt đầu diễn ra này, nàng nghĩ. Cái sự việc hình như chỉ diễn ra trong đầu nàng. Nàng sẽ không ra đường nếu như chỉ có mỗi nửa ngày là ánh sáng.

2. Nàng không muốn đi làm. Trong mười ngày nàng sẽ không đến công sở tám tiếng nhàm chán. Nàng chán ghét không gian bên ngoài kia, cái không gian mà nàng nghĩ là não nàng chết chỉ để phục vụ cái dạ dày. Nàng muốn được sống với cái không gian duy nhất có ý nghĩa, căn phòng này, cùng với tấm rèm kéo ngay cửa sổ giường nằm, nơi nàng có thể nhận diện được sự sống qua việc kéo rèm che để nhìn thấy nửa ngày sáng và nửa ngày tối, nơi óc nàng được bay nhảy và kí ức của nàng được tưởng niệm.

Nàng không nghĩ nhiều về người mẹ mất con. Nàng nhớ nụ cười của đứa trẻ năm xưa, đứa trẻ năm xưa có hai hạt gạo bên khóe miệng. Nàng nhíu mày khi nhìn đôi mắt mình qua gương, trong mắt nàng có thêm những đứa trẻ năm xưa khác. Chúng không cười mà khóc rưng rức trong đêm trăng sáng, trong giấc mơ hoang.

Nàng không thích đi làm. Ngoài trời, vẫn chẳng thể khá hơn. Chỉ một màu xám ngoét. Công sở thiếu nàng mười ngày có thể thay thế bằng kẻ khác. Hẳn là công sở cũng chẳng thể tốt lên và cũng chẳng xấu đi nếu thiếu mỗi mình nàng, một nhân viên ráp chữ, sắp xếp giấy tờ. Nàng phải ráp chữ cho kẻ không thích làm công việc ráp chữ đang điều khiển thế giới, điều khiển mọi xác phàm hoạt động liên tục dưới một guồng máy cũ kỹ kì quặc, không tên không tuổi. Guồng máy ấy, nàng nghĩ, chúng tồn tại đủ lâu hoặc là quá lâu. Guồng máy không mang lại sự mới mẻ nào khác ngoài những câu chuyện quỷ ám điên rồ tột độ khiến thế giới mà nàng thường hằng mơ tưởng bớt đi vài phần tươi đẹp.

Ánh sáng đã tắt. Nửa ngày ánh sáng tiếp theo tiếp tục tắt lịm.

Nàng có khá nhiều thức ăn dự trữ đủ cho nàng sống sót mười ngày không cần phải xê dịch bước chân đến sở làm, đến siêu thị, hoặc lượn quanh các góc phố, quán cà phê khi rảnh rỗi. Nửa ngày ánh sáng đã hết, và bóng tối ghé qua rèm cửa sổ ngay đầu giường nằm của nàng để chiều chuộng ve vãn nàng như một gã tình nhân hờ hững vờ vịt đểu cáng. Nàng nhẹ tay kéo tấm rèm cửa. Bóng tối vẫn không hề biến mất. Chúng len lỏi ùa ngập trong căn phòng hẹp của nàng. Nàng không nhìn thấy mình qua gương nữa. Bóng tối đã che khuất tấm gương, giấu đi khuôn mặt nàng. Bóng tối kéo rê những âm thanh trên đường ray phía bên ngoài tòa nhà mà nàng nghe được. Mọi sự chuyển động vẫn không hề ngừng lại, kể cả khi nàng cố tình bắt đầu một sự im lặng, một sự phản đối các loại hoạt năng thường ngày để phục vụ cái guồng máy mục ruỗng lỗi thời và ích kỉ đó. Chẳng ai chịu nghĩ đến việc phải thay thế sự cũ kỹ của một guồng máy đang kêu ken két chói tai bên ngoài đường ray nọ. Họ đều phải đến công sở mỗi ngày sáng và trở về mệt mỏi trong nửa ngày tối còn lại rồi nằm chết trên một chiếc giường, một căn phòng hẹp chờ đến ngày sáng tiếp theo để phục vụ guồng máy đang kêu ken két kia bên tai nàng lúc này. Nàng không muốn như họ, không muốn chết cả ngày cho cái dạ dày.

3. Nàng soi mặt mình qua gương, gầy nhom. Nàng soi đôi mắt mình qua gương, sâu hoắm. Nàng soi đôi môi mình qua gương, tái nhợt. Nàng soi mái tóc mình qua gương, mỏng và thưa. Bất giác nàng thấy trong đôi mắt mình một thứ ánh sáng mờ đục khác, một tinh thể tròn trịa như viên bi trắng lấp lánh. Chúng gợi nhắc nàng về một thế giới mà nàng đã từng vọng tưởng thời trẻ con. Thế giới khi nàng trưởng thành và nhận ra tất cả đều bị gài bom ảo ảnh. Sự thật cũng chỉ là một quả đắng, nhưng nó không hẳn là thuốc độc. Nàng nghĩ ăn xong một quả đắng, sau đó sẽ là vị ngọt như uống một tách trà vậy. Chẳng ai dám lắng nghe sự thật, chỉ lựa chọn quả mật đường để đánh lừa vị giác trong chốc lát.

Nàng rời khỏi chiếc gương. Nàng sẽ đi ngủ. Nàng cần phải chợp mắt, để khi thức dậy, nàng tiếp tục chơi trò kéo rèm cửa ngắm nửa ngày sáng còn lại trong căn phòng hẹp của mình, lắng nghe tiếng đường ray liên tục rên rỉ dưới gầm trời chuyển biến sấp ngửa giữa ánh sáng và bóng tối y hệt một trò chơi đỏ đen nhàm chán trong sòng bạc. Nàng mơ. Nàng luôn nhận thức được hai trạng thái thực và mộng của mình. Nàng bắt đầu nằm mơ trong căn phòng hẹp. Trên một chiếc giường hẹp, nàng nằm co và mơ những nỗi niềm trong lòng thế giới riêng không tài nào lí giải được, dù rằng nơi nàng đang sống có rất nhiều thứ nàng đã từng ao ước được nhìn thấy. Nàng nhớ cảm giác mỗi lần dẫm chân trên cỏ xanh, chạy theo trêu đùa với bầy cừu trắng trong nắng vàng hay ngắm một bầu trời trong vắt thênh thang, đưa tay hứng một cánh chim lạc đường bay không về tổ. Tất cả những hiện cảnh đó hệt như một giấc mơ xưa cũ của nàng vậy. Ấy thế mà ngay lúc này đây, trong lòng thành phố thân quen, giữa căn phòng hẹp, nàng lại nảy sinh những tâm thức buồn bã kì quặc về nó, cái guồng máy cũ kỹ vẫn nện xuống đường ray cả đêm lẫn nửa ngày ánh sáng của nàng không ngưng nghỉ. Có khi, nàng cảm thấy yêu mến nó, tiếng của đường ray, có khi nàng cảm thấy mình không thể thiếu nó. Cuộc đời mới cô độc làm sao. Nàng biết nỗi cô độc đáng sợ chừng nào. Nhưng, đôi lúc nàng cần sự cô độc ấy, cần như một thứ men say của một cơn thăng hoa trí não suy tư, cần để tỉnh táo ngắm nghía cõi thẳm sâu của linh hồn nàng, của thế giới, của mọi thứ phía bên trong căn phòng hẹp này hoặc cả ở bên ngoài khung cửa sổ.

Trong một giấc mơ nửa ngày ánh sáng nàng vẫn tiếp tục chơi trò chơi của mình về việc suy tưởng. Thứ mà nàng suy tưởng là sự tồn tại của chính nàng, của quá khứ, của kí ức và những khuôn mặt thân quen dù sống hay đã chết. Kể cả cái guồng máy điên rồ nọ đang hoạt động không chịu ngưng nghỉ.

Nửa ngày ánh sáng tiếp theo lại rời khỏi nàng. Chúng đã tắt ngóm như một lẽ tất yếu hiển nhiên. Nàng sợ thời gian. Thời gian chẳng sợ ai. Nàng vẫn quyết không xê dịch đôi chân ra khỏi cửa, xuống đường, đến quán cà phê quen nằm giữa lòng phố. Nàng với tay kéo rèm cửa sổ. Ánh sáng nửa ngày chỉ còn sót lại một chút ít màu xám bạc của mùa đông lạnh lẽo. Nàng vẫn không muốn đi làm. Công sở chắc không cần nàng. Và nàng lúc này cũng chẳng cần công sở. Trong phòng hẹp vẫn còn thức ăn dự trữ. Một ít quả ngọt, một ít táo đỏ cùng với một chút nước và sữa hạt là đủ cho dạ dày nàng. Tự do của não bộ trong một không gian sống là toàn bộ ý nghĩ nơi nàng.

4. Ngày thứ tư. Nàng vẫn chưa thể suy tưởng ra thứ gì nàng cần nữa. Nàng ghét sự đơn điệu nhàm chán. Nhưng lúc này, hình như chính nàng đang cố tình đẩy mình vào trạng huống của sự đơn điệu nhàm chán. Cuối cùng, khi kéo tấm rèm cửa lại, chờ bóng tối đến quấy nhiễu như mọi khi, nàng bỗng phát hiện ra chỉ có mỗi mình nàng trong một chiếc gương trên tường, với những nụ cười trẻ con hồn nhiên. Sẽ không ai nhớ nụ cười của trẻ con như nàng, đó là một bí mật, bí mật ngọt ngào không đắng cay như những bí mật khác. Và thế là đủ cho một ngày dù rằng nàng không bước chân ra ngoài đường.

5. Ngày thứ năm, nàng nằm mơ trên đồi cỏ với bầy cừu trắng xa lạ ngây thơ.

6. Ngày thứ sáu, nàng mở mắt sau một giấc ngủ dài và sâu. Nàng không muốn trở dậy với tay kéo rèm cửa sổ ngay đầu giường nằm. Nàng không muốn soi mình vào gương. Tấm gương phủ một lớp màng nhện. Những con nhện nhanh nhẹn đã kéo màng tơ che khuất khuôn mặt của thời gian chạy ngang qua nàng. Guồng máy cũ kỹ vẫn rên rỉ. Đó là thứ âm thanh duy nhất nàng nhận diện được sau một giấc ngủ dài và sâu. Mọi thứ không hề thay đổi. Công sở chắc chắn vẫn không cần nàng. Một kẻ ráp chữ, sắp xếp các loại giấy tờ. Công sở hẳn là đã có người thay thế nàng.

Nàng nhớ mùi cà phê.

7. Ngày thứ bảy, nàng vẫn tiếp tục ngủ vùi và bỏ rơi nửa ngày ánh sáng ít ỏi của mình bên ngoài cửa sổ. Nàng nhớ mùi cà phê. Cơn đói. Con người không thể vượt qua được tiếng kêu đòi của dạ dày. Nàng nhớ nụ cười của chàng trai phục vụ bàn ở quán café quen. Hóa ra, mọi suy tưởng của nàng sau những ngày tự giam mình trong một căn phòng hẹp vẫn chỉ hướng đến thứ tốt đẹp, những thứ nàng nghĩ, bằng cách nào đấy, chúng có thể trấn áp quyền năng tối tăm của bóng đêm. Nàng nghĩ đến việc rời khỏi căn phòng hẹp. Nàng nghĩ nàng phải di dời cơ thể của mình đến nơi đó, nơi guồng máy vẫn rên rỉ nện xuống đường ray hàng ngày bên tai nàng nhắc nhở nàng về sự sống.

8. Ngày thứ tám, nàng kéo rèm để ánh sáng nửa ngày tràn vào căn phòng hẹp. Nàng dự là sẽ xuống Orta để nhấp ngụm cà phê, ngồi dưới máy sưởi ngắm nửa ngày ánh sáng lạnh lẽo xám xịt còn lại, vẫy tay chào anh phục vụ bàn quen thuộc có đôi mắt và nụ cười hệt như thằng em trai chưa đến ba mươi vừa mất của nàng.

9. Nàng nhớ, trước đây mấy hôm, nàng vẫn còn đến Orta vào thứ bảy hàng tuần. Lần này, nếu rời khỏi căn phòng hẹp, nàng sẽ chào anh phục vụ bàn quen, hoặc ngắm đôi mắt Paris nhoẻn cười hỏi nàng “có phải bạn muốn một cốc cà phê màu bạc đúng không?” Nàng sẽ im lặng khi uống cà phê. Sự im lặng của nàng, sự bất tuân của một mình nàng chưa đủ để thay đổi thế giới điên rồ ngoài kia. Nàng ước cả thế giới đều cầm lòng nhốt mình trong những căn phòng hẹp, như nàng, mà không phải làm nô lệ cho cái dạ dày nữa. Người ta có thể nếu không ăn, nhưng câu hỏi về ý nghĩa của sự sống hình như chẳng mấy ai đếm xỉa nữa, một khi dạ dày đã no căng.

Nàng muốn, thời gian, phải sợ nàng. Nhưng ngày thứ chín đã trôi qua rất nhanh, và từ quán cà phê, nàng đã phải tất tả chạy về nhà mở tủ lạnh.

10. Nàng thức dậy sớm hơn để chuẩn bị cho việc rời khỏi căn phòng hẹp. Nàng cần hít thở không khí của một ngày ánh sáng nguyên vẹn. Nàng sẽ không đến quán cà phê Orta nữa. Nàng phải làm một điều gì đó để tất cả mọi thứ xung quanh nàng đều câm lặng. Chỉ cần mười ngày không ai đến công sở, mười ngày trẻ con không đến trường, mười ngày các bà nội trợ không đi siêu thị, mười ngày các nhà máy dừng hoạt động, mười ngày vắng tiếng con người trên đường phố. Mười ngày thôi, mọi suy tưởng của nàng về một sự nhàm chán sẽ được thay một lớp áo mới. Mười ngày kéo rèm cửa sổ hoặc vùi sâu trong những giấc ngủ lãng quên khuôn mặt thời gian. Mọi thứ sẽ thay đổi. Mặt đất sẽ được hít thở, cây cỏ sẽ được sinh sôi, bầu trời sẽ được thanh lọc.

Ngày thứ mười.

Ánh sáng vừa lọt qua tấm rèm che. Mọi âm thanh xung quanh nàng biến mất không để lại bất kì dấu vết nào, kể cả tiếng đoàn tàu quen thuộc nện xuống đường ray những chuyển động rệu rã. Căn phòng hẹp lấp lánh một vài tia ánh sáng yếu ớt vỗ về giấc mơ đêm qua. Nàng bắt đầu rời bỏ hiện hữu của bản thân mình ở chốn xa lạ này để trở về với nơi ẩn náu quen thuộc dần dần rõ rệt như những sợi chỉ xanh mỏng trên cơ thể. Nàng mơ trong lúc tỉnh. Nàng nhớ nàng đã rời bỏ căn phòng hẹp này để trở về nhà. (Nàng muốn trở về nhà). Nhưng dường như, nàng lại đến với một căn phòng hẹp khác. Bóng tối tiếp tục rờ rẫm, mơn trớn nàng kể cả khi ánh sáng bên ngoài cửa sổ vẫn tràn lênh láng xuyên thấu từng mảng tường trắng và vàng. Kì lạ chưa, thứ bóng tối dằng xé từng khúc đoạn thể xác yếu đuối cùng với một linh hồn quỷ ám. Những linh hồn quỷ ám không thích nghe tiếng kinh cầu nguyện. Những linh hồn quỷ ám chỉ biết gào thét trong cơn đau tột cùng khi ngửi thấy mùi tinh khiết, mùi thanh sạch thiện lương. Những linh hồn quỷ ám chỉ biết cúi đầu trong bóng tối, trong một không gian bao bọc bởi một màu đen tử thần.

Nàng chợt nhớ những lần mình sợ bóng tối. Nàng thường cầu khẩn cha đừng tắt đi ánh sáng nhỏ duy nhất từ bóng đèn quả ớt mỗi lần đi ngủ. Rồi nàng biết nàng không còn bé bỏng để được nhìn ngắm ánh sáng trong đêm, trong giấc mơ chưa hết thời trẻ dại, nhìn nước mắt đi qua như một cơn mưa nhỏ. Nàng lớn dần, cha không tắt bóng đèn quả ớt mỗi lần chuẩn bị đi ngủ, nhưng luôn luôn nhắc nhở điệp khúc nói mê: “con ơi ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Vậy ư cha? Đứa trẻ trong kí ức của nàng xem ánh sáng là linh hồn tinh sạch tẩy rửa mọi ám muội của bóng tối, của giấu che, của sự dối lừa và của tội lỗi.

Nàng nhớ, nàng đã lớn.

Việc nàng đã lớn có một số giới hạn mà nàng không tài nào định lượng được khi suy nghĩ về ánh sáng và bóng tối. Nàng chẳng hề nói với cha, rằng, nàng bắt đầu quen dần với màu của đêm, hoặc không cần đến bóng đèn quả ớt nữa. Nàng đã có thể nhìn thấy những điều mình muốn trong bóng tối một cách dễ dàng. Kể cả chúng, chúng không phải là những sợi dây, những cái màng kết lại với nhau. Chúng không bất động, chúng chạy, chúng làm chủ thể xác và tinh thần của nàng trong bóng tối. Chúng dẫn dắt mọi thứ nàng có ở bất kì không gian nào nàng tồn tại khi bóng tối xuất hiện, tràn đến hể hả mơn trớn với nàng như một gã tử thần chẳng mấy lịch thiệp hào hoa. Nàng nuôi dưỡng bóng tối từ đó, khi không còn nghe cha nói mê trong đêm mỗi lần đi ngủ: “ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Niềm tin rời rạc biến nàng thành một bức tường khổng lồ cố tình ẩn náu sâu kín trong bóng tối.

Nàng vẫn không thể rời khỏi một căn phòng hẹp, nàng không đủ can đảm để bước ra ánh sáng, xuống Orta, uống một tách cà phê sau mười ngày. Nàng chỉ là một nhân viên ráp chữ. Nàng không có bạn. Giờ nàng cũng chẳng có người yêu. Nàng không có những gã tình nhân hờ hững qua đường. Nàng nhớ, cha nàng rời đi khi ánh sáng vẫn còn ngập đầy trước sân nhà mỗi lần tiếng gà gáy vang phía sau vườn cỏ. Mẹ nàng trầm ngâm đốt thuốc lá trên những ngón tay xương gầy, ngắn vụn vỡ. Mẹ ho. Ho sặc sụa. Giọng mẹ bắt đầu khản đặc lại khi gọi cha trong khói, trong sương.

Nàng đã lớn.

Nàng là một cô gái trưởng thành.

Cha nàng vẫn biệt tích dưới bầu trời đêm không trăng sao nhiệt tình cổ vũ mời gọi bóng tối đến. Nàng không yêu cha. Nàng chỉ nhớ những lời cha nói mê, “ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Nàng sẽ không yêu bất kì một người đàn ông nào. Vì họ cũng như ánh sáng.

“Ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Nàng hát thì thầm. Lời của cha vọng lại bên những hành lang dài sâu trong miền kí ức. Mẹ vẫn còn đốt thuốc. Và, nàng rời đi đến một nơi khác, không có cả cha lẫn mẹ, chỉ có một căn phòng trống, cùng với toàn bộ bóng tối giàu có bủa vây.

Ngày thứ mười, nàng đốt thuốc. Nàng đốt bóng tối tìm kiếm thứ gì đó khác lạ hơn những gì nàng có. Nàng đốt thuốc và soi xuống mu bàn tay mình. Chúng, không phải là thứ bất động, chúng di chuyển đều đặn khắp mọi nơi, kể cả những chỗ mắt nàng không thể nhìn thấy. Chúng có màu xanh. Trong một không gian tối, một chút ánh lửa từ điếu thuốc nàng ngắm nghía chúng, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chúng. Bất giác nước mắt nàng rớt xuống nằm đè lên chúng, di chuyển theo chúng. Cha nàng đã sai, trong bóng tối cũng có những thứ mà cha từng nói mê.

Đêm hôm qua nàng đã nói chuyện với chúng, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa một linh hồn cầu khẩn sự tinh sạch khi nghe tiếng kinh trì níu và một linh hồn quỷ ám đau đớn thể phách khi nhìn thấy ánh sáng. Giữa một căn phòng hẹp với hai chiều kí ức, nàng đã nói chuyện với chúng, những mạch máu của mình. Nàng tò mò cầm lưỡi lam liếc qua những đường màu xanh đó dưới lớp da. Thật kì lạ, màu xanh biến mất. Những giọt màu đỏ rớt trên bàn chân nàng.

Mười ngày hỗn độn giữa ánh sáng và bóng tối, nàng đã biết cách để phân biệt rõ nó, trắng và đen, lặng im hay chuyển động. Nàng nghĩ chỉ cần nằm xuống một nền xi măng lạnh, rồi bắt đầu nhìn những mạch máu dịch chuyển khỏi cơ thể xác phàm bằng một nhát cứa nhẹ lên cổ tay.

Nàng sẽ nằm xuống để lắng nghe bóng tối. Chúng đang cố tình dụ dỗ nàng đặt cược một ván cờ.

T.B.K  
(TCSH344/10-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.