TRẦN BĂNG KHUÊ
1. Nàng quyết định không rời khỏi căn phòng hẹp của mình. Nàng chán cái cảm giác phải kéo tấm rèm mỗi ngày cạnh cửa sổ đầu giường, lúc mười hai giờ, khi nàng tỉnh giấc.
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
Những cái bóng mờ kéo rê đôi mắt nàng theo một giấc mơ kì lạ khiến nàng không thể, và không muốn choàng dậy. Nàng kéo tấm rèm lần nữa, như muốn chối từ ánh sáng nửa ngày, phớt lờ thời gian. Việc đó thật đáng sợ, với nàng, ở cái tuổi quá ba mươi này.
Nàng sợ thời gian. Thời gian chẳng sợ ai.
Đôi chân thích chơi trò xê dịch đã ngán ngẩm với chuyện bay nhảy tìm kiếm tự do tuyệt đối. Môi nàng đã bắt đầu khô quắt, nhợt nhạt xám. Nàng tự ngắm trong gương và thấy trái tim trĩu nặng. Trái tim nàng hoang mang về tất thảy mọi thứ đã qua, tốt đẹp hay meo mốc, điều gì đang xảy đến. Những mất mát kì quặc đầy mặc tưởng đóng vẩy thành từng lớp ký ức không tên, không địa chỉ, hay mỏ neo để nhớ về. Một khuôn mặt non nớt trẻ thơ của ai đó đã rất thân thiết với nàng vừa mới rời bỏ cuộc đời này, rời bỏ nàng. Những xác chết trẻ nằm trong huyệt mộ sâu và lạnh. Nàng cảm thấy nghẹt thở khi kí ức đóng vẩy bỗng dưng tróc ra và sưng tấy. Bất giác nàng nhớ đến gã đàn ông từng là gã đàn ông đời nàng khi nghe tin mẹ chết. Gã không khóc, như một kẻ xa lạ.
Hết nửa ngày ánh sáng, những ý nghĩ về cái chết vây bủa. Nàng chỉ còn lại nửa ngày đêm tối để ngắm mình qua gương và nhốt mình trong căn phòng hẹp. Rồi, nửa ngày ánh sáng thứ hai, thứ ba, thứ tư, những ngày sau nữa, cho đến nửa ngày ánh sáng thứ mười mới được dừng lại được, sự việc điên rồ mới bắt đầu diễn ra này, nàng nghĩ. Cái sự việc hình như chỉ diễn ra trong đầu nàng. Nàng sẽ không ra đường nếu như chỉ có mỗi nửa ngày là ánh sáng.
2. Nàng không muốn đi làm. Trong mười ngày nàng sẽ không đến công sở tám tiếng nhàm chán. Nàng chán ghét không gian bên ngoài kia, cái không gian mà nàng nghĩ là não nàng chết chỉ để phục vụ cái dạ dày. Nàng muốn được sống với cái không gian duy nhất có ý nghĩa, căn phòng này, cùng với tấm rèm kéo ngay cửa sổ giường nằm, nơi nàng có thể nhận diện được sự sống qua việc kéo rèm che để nhìn thấy nửa ngày sáng và nửa ngày tối, nơi óc nàng được bay nhảy và kí ức của nàng được tưởng niệm.
Nàng không nghĩ nhiều về người mẹ mất con. Nàng nhớ nụ cười của đứa trẻ năm xưa, đứa trẻ năm xưa có hai hạt gạo bên khóe miệng. Nàng nhíu mày khi nhìn đôi mắt mình qua gương, trong mắt nàng có thêm những đứa trẻ năm xưa khác. Chúng không cười mà khóc rưng rức trong đêm trăng sáng, trong giấc mơ hoang.
Nàng không thích đi làm. Ngoài trời, vẫn chẳng thể khá hơn. Chỉ một màu xám ngoét. Công sở thiếu nàng mười ngày có thể thay thế bằng kẻ khác. Hẳn là công sở cũng chẳng thể tốt lên và cũng chẳng xấu đi nếu thiếu mỗi mình nàng, một nhân viên ráp chữ, sắp xếp giấy tờ. Nàng phải ráp chữ cho kẻ không thích làm công việc ráp chữ đang điều khiển thế giới, điều khiển mọi xác phàm hoạt động liên tục dưới một guồng máy cũ kỹ kì quặc, không tên không tuổi. Guồng máy ấy, nàng nghĩ, chúng tồn tại đủ lâu hoặc là quá lâu. Guồng máy không mang lại sự mới mẻ nào khác ngoài những câu chuyện quỷ ám điên rồ tột độ khiến thế giới mà nàng thường hằng mơ tưởng bớt đi vài phần tươi đẹp.
Ánh sáng đã tắt. Nửa ngày ánh sáng tiếp theo tiếp tục tắt lịm.
Nàng có khá nhiều thức ăn dự trữ đủ cho nàng sống sót mười ngày không cần phải xê dịch bước chân đến sở làm, đến siêu thị, hoặc lượn quanh các góc phố, quán cà phê khi rảnh rỗi. Nửa ngày ánh sáng đã hết, và bóng tối ghé qua rèm cửa sổ ngay đầu giường nằm của nàng để chiều chuộng ve vãn nàng như một gã tình nhân hờ hững vờ vịt đểu cáng. Nàng nhẹ tay kéo tấm rèm cửa. Bóng tối vẫn không hề biến mất. Chúng len lỏi ùa ngập trong căn phòng hẹp của nàng. Nàng không nhìn thấy mình qua gương nữa. Bóng tối đã che khuất tấm gương, giấu đi khuôn mặt nàng. Bóng tối kéo rê những âm thanh trên đường ray phía bên ngoài tòa nhà mà nàng nghe được. Mọi sự chuyển động vẫn không hề ngừng lại, kể cả khi nàng cố tình bắt đầu một sự im lặng, một sự phản đối các loại hoạt năng thường ngày để phục vụ cái guồng máy mục ruỗng lỗi thời và ích kỉ đó. Chẳng ai chịu nghĩ đến việc phải thay thế sự cũ kỹ của một guồng máy đang kêu ken két chói tai bên ngoài đường ray nọ. Họ đều phải đến công sở mỗi ngày sáng và trở về mệt mỏi trong nửa ngày tối còn lại rồi nằm chết trên một chiếc giường, một căn phòng hẹp chờ đến ngày sáng tiếp theo để phục vụ guồng máy đang kêu ken két kia bên tai nàng lúc này. Nàng không muốn như họ, không muốn chết cả ngày cho cái dạ dày.
3. Nàng soi mặt mình qua gương, gầy nhom. Nàng soi đôi mắt mình qua gương, sâu hoắm. Nàng soi đôi môi mình qua gương, tái nhợt. Nàng soi mái tóc mình qua gương, mỏng và thưa. Bất giác nàng thấy trong đôi mắt mình một thứ ánh sáng mờ đục khác, một tinh thể tròn trịa như viên bi trắng lấp lánh. Chúng gợi nhắc nàng về một thế giới mà nàng đã từng vọng tưởng thời trẻ con. Thế giới khi nàng trưởng thành và nhận ra tất cả đều bị gài bom ảo ảnh. Sự thật cũng chỉ là một quả đắng, nhưng nó không hẳn là thuốc độc. Nàng nghĩ ăn xong một quả đắng, sau đó sẽ là vị ngọt như uống một tách trà vậy. Chẳng ai dám lắng nghe sự thật, chỉ lựa chọn quả mật đường để đánh lừa vị giác trong chốc lát.
Nàng rời khỏi chiếc gương. Nàng sẽ đi ngủ. Nàng cần phải chợp mắt, để khi thức dậy, nàng tiếp tục chơi trò kéo rèm cửa ngắm nửa ngày sáng còn lại trong căn phòng hẹp của mình, lắng nghe tiếng đường ray liên tục rên rỉ dưới gầm trời chuyển biến sấp ngửa giữa ánh sáng và bóng tối y hệt một trò chơi đỏ đen nhàm chán trong sòng bạc. Nàng mơ. Nàng luôn nhận thức được hai trạng thái thực và mộng của mình. Nàng bắt đầu nằm mơ trong căn phòng hẹp. Trên một chiếc giường hẹp, nàng nằm co và mơ những nỗi niềm trong lòng thế giới riêng không tài nào lí giải được, dù rằng nơi nàng đang sống có rất nhiều thứ nàng đã từng ao ước được nhìn thấy. Nàng nhớ cảm giác mỗi lần dẫm chân trên cỏ xanh, chạy theo trêu đùa với bầy cừu trắng trong nắng vàng hay ngắm một bầu trời trong vắt thênh thang, đưa tay hứng một cánh chim lạc đường bay không về tổ. Tất cả những hiện cảnh đó hệt như một giấc mơ xưa cũ của nàng vậy. Ấy thế mà ngay lúc này đây, trong lòng thành phố thân quen, giữa căn phòng hẹp, nàng lại nảy sinh những tâm thức buồn bã kì quặc về nó, cái guồng máy cũ kỹ vẫn nện xuống đường ray cả đêm lẫn nửa ngày ánh sáng của nàng không ngưng nghỉ. Có khi, nàng cảm thấy yêu mến nó, tiếng của đường ray, có khi nàng cảm thấy mình không thể thiếu nó. Cuộc đời mới cô độc làm sao. Nàng biết nỗi cô độc đáng sợ chừng nào. Nhưng, đôi lúc nàng cần sự cô độc ấy, cần như một thứ men say của một cơn thăng hoa trí não suy tư, cần để tỉnh táo ngắm nghía cõi thẳm sâu của linh hồn nàng, của thế giới, của mọi thứ phía bên trong căn phòng hẹp này hoặc cả ở bên ngoài khung cửa sổ.
Trong một giấc mơ nửa ngày ánh sáng nàng vẫn tiếp tục chơi trò chơi của mình về việc suy tưởng. Thứ mà nàng suy tưởng là sự tồn tại của chính nàng, của quá khứ, của kí ức và những khuôn mặt thân quen dù sống hay đã chết. Kể cả cái guồng máy điên rồ nọ đang hoạt động không chịu ngưng nghỉ.
Nửa ngày ánh sáng tiếp theo lại rời khỏi nàng. Chúng đã tắt ngóm như một lẽ tất yếu hiển nhiên. Nàng sợ thời gian. Thời gian chẳng sợ ai. Nàng vẫn quyết không xê dịch đôi chân ra khỏi cửa, xuống đường, đến quán cà phê quen nằm giữa lòng phố. Nàng với tay kéo rèm cửa sổ. Ánh sáng nửa ngày chỉ còn sót lại một chút ít màu xám bạc của mùa đông lạnh lẽo. Nàng vẫn không muốn đi làm. Công sở chắc không cần nàng. Và nàng lúc này cũng chẳng cần công sở. Trong phòng hẹp vẫn còn thức ăn dự trữ. Một ít quả ngọt, một ít táo đỏ cùng với một chút nước và sữa hạt là đủ cho dạ dày nàng. Tự do của não bộ trong một không gian sống là toàn bộ ý nghĩ nơi nàng.
4. Ngày thứ tư. Nàng vẫn chưa thể suy tưởng ra thứ gì nàng cần nữa. Nàng ghét sự đơn điệu nhàm chán. Nhưng lúc này, hình như chính nàng đang cố tình đẩy mình vào trạng huống của sự đơn điệu nhàm chán. Cuối cùng, khi kéo tấm rèm cửa lại, chờ bóng tối đến quấy nhiễu như mọi khi, nàng bỗng phát hiện ra chỉ có mỗi mình nàng trong một chiếc gương trên tường, với những nụ cười trẻ con hồn nhiên. Sẽ không ai nhớ nụ cười của trẻ con như nàng, đó là một bí mật, bí mật ngọt ngào không đắng cay như những bí mật khác. Và thế là đủ cho một ngày dù rằng nàng không bước chân ra ngoài đường.
5. Ngày thứ năm, nàng nằm mơ trên đồi cỏ với bầy cừu trắng xa lạ ngây thơ.
6. Ngày thứ sáu, nàng mở mắt sau một giấc ngủ dài và sâu. Nàng không muốn trở dậy với tay kéo rèm cửa sổ ngay đầu giường nằm. Nàng không muốn soi mình vào gương. Tấm gương phủ một lớp màng nhện. Những con nhện nhanh nhẹn đã kéo màng tơ che khuất khuôn mặt của thời gian chạy ngang qua nàng. Guồng máy cũ kỹ vẫn rên rỉ. Đó là thứ âm thanh duy nhất nàng nhận diện được sau một giấc ngủ dài và sâu. Mọi thứ không hề thay đổi. Công sở chắc chắn vẫn không cần nàng. Một kẻ ráp chữ, sắp xếp các loại giấy tờ. Công sở hẳn là đã có người thay thế nàng.
Nàng nhớ mùi cà phê.
7. Ngày thứ bảy, nàng vẫn tiếp tục ngủ vùi và bỏ rơi nửa ngày ánh sáng ít ỏi của mình bên ngoài cửa sổ. Nàng nhớ mùi cà phê. Cơn đói. Con người không thể vượt qua được tiếng kêu đòi của dạ dày. Nàng nhớ nụ cười của chàng trai phục vụ bàn ở quán café quen. Hóa ra, mọi suy tưởng của nàng sau những ngày tự giam mình trong một căn phòng hẹp vẫn chỉ hướng đến thứ tốt đẹp, những thứ nàng nghĩ, bằng cách nào đấy, chúng có thể trấn áp quyền năng tối tăm của bóng đêm. Nàng nghĩ đến việc rời khỏi căn phòng hẹp. Nàng nghĩ nàng phải di dời cơ thể của mình đến nơi đó, nơi guồng máy vẫn rên rỉ nện xuống đường ray hàng ngày bên tai nàng nhắc nhở nàng về sự sống.
8. Ngày thứ tám, nàng kéo rèm để ánh sáng nửa ngày tràn vào căn phòng hẹp. Nàng dự là sẽ xuống Orta để nhấp ngụm cà phê, ngồi dưới máy sưởi ngắm nửa ngày ánh sáng lạnh lẽo xám xịt còn lại, vẫy tay chào anh phục vụ bàn quen thuộc có đôi mắt và nụ cười hệt như thằng em trai chưa đến ba mươi vừa mất của nàng.
9. Nàng nhớ, trước đây mấy hôm, nàng vẫn còn đến Orta vào thứ bảy hàng tuần. Lần này, nếu rời khỏi căn phòng hẹp, nàng sẽ chào anh phục vụ bàn quen, hoặc ngắm đôi mắt Paris nhoẻn cười hỏi nàng “có phải bạn muốn một cốc cà phê màu bạc đúng không?” Nàng sẽ im lặng khi uống cà phê. Sự im lặng của nàng, sự bất tuân của một mình nàng chưa đủ để thay đổi thế giới điên rồ ngoài kia. Nàng ước cả thế giới đều cầm lòng nhốt mình trong những căn phòng hẹp, như nàng, mà không phải làm nô lệ cho cái dạ dày nữa. Người ta có thể nếu không ăn, nhưng câu hỏi về ý nghĩa của sự sống hình như chẳng mấy ai đếm xỉa nữa, một khi dạ dày đã no căng.
Nàng muốn, thời gian, phải sợ nàng. Nhưng ngày thứ chín đã trôi qua rất nhanh, và từ quán cà phê, nàng đã phải tất tả chạy về nhà mở tủ lạnh.
10. Nàng thức dậy sớm hơn để chuẩn bị cho việc rời khỏi căn phòng hẹp. Nàng cần hít thở không khí của một ngày ánh sáng nguyên vẹn. Nàng sẽ không đến quán cà phê Orta nữa. Nàng phải làm một điều gì đó để tất cả mọi thứ xung quanh nàng đều câm lặng. Chỉ cần mười ngày không ai đến công sở, mười ngày trẻ con không đến trường, mười ngày các bà nội trợ không đi siêu thị, mười ngày các nhà máy dừng hoạt động, mười ngày vắng tiếng con người trên đường phố. Mười ngày thôi, mọi suy tưởng của nàng về một sự nhàm chán sẽ được thay một lớp áo mới. Mười ngày kéo rèm cửa sổ hoặc vùi sâu trong những giấc ngủ lãng quên khuôn mặt thời gian. Mọi thứ sẽ thay đổi. Mặt đất sẽ được hít thở, cây cỏ sẽ được sinh sôi, bầu trời sẽ được thanh lọc.
Ngày thứ mười.
Ánh sáng vừa lọt qua tấm rèm che. Mọi âm thanh xung quanh nàng biến mất không để lại bất kì dấu vết nào, kể cả tiếng đoàn tàu quen thuộc nện xuống đường ray những chuyển động rệu rã. Căn phòng hẹp lấp lánh một vài tia ánh sáng yếu ớt vỗ về giấc mơ đêm qua. Nàng bắt đầu rời bỏ hiện hữu của bản thân mình ở chốn xa lạ này để trở về với nơi ẩn náu quen thuộc dần dần rõ rệt như những sợi chỉ xanh mỏng trên cơ thể. Nàng mơ trong lúc tỉnh. Nàng nhớ nàng đã rời bỏ căn phòng hẹp này để trở về nhà. (Nàng muốn trở về nhà). Nhưng dường như, nàng lại đến với một căn phòng hẹp khác. Bóng tối tiếp tục rờ rẫm, mơn trớn nàng kể cả khi ánh sáng bên ngoài cửa sổ vẫn tràn lênh láng xuyên thấu từng mảng tường trắng và vàng. Kì lạ chưa, thứ bóng tối dằng xé từng khúc đoạn thể xác yếu đuối cùng với một linh hồn quỷ ám. Những linh hồn quỷ ám không thích nghe tiếng kinh cầu nguyện. Những linh hồn quỷ ám chỉ biết gào thét trong cơn đau tột cùng khi ngửi thấy mùi tinh khiết, mùi thanh sạch thiện lương. Những linh hồn quỷ ám chỉ biết cúi đầu trong bóng tối, trong một không gian bao bọc bởi một màu đen tử thần.
Nàng chợt nhớ những lần mình sợ bóng tối. Nàng thường cầu khẩn cha đừng tắt đi ánh sáng nhỏ duy nhất từ bóng đèn quả ớt mỗi lần đi ngủ. Rồi nàng biết nàng không còn bé bỏng để được nhìn ngắm ánh sáng trong đêm, trong giấc mơ chưa hết thời trẻ dại, nhìn nước mắt đi qua như một cơn mưa nhỏ. Nàng lớn dần, cha không tắt bóng đèn quả ớt mỗi lần chuẩn bị đi ngủ, nhưng luôn luôn nhắc nhở điệp khúc nói mê: “con ơi ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Vậy ư cha? Đứa trẻ trong kí ức của nàng xem ánh sáng là linh hồn tinh sạch tẩy rửa mọi ám muội của bóng tối, của giấu che, của sự dối lừa và của tội lỗi.
Nàng nhớ, nàng đã lớn.
Việc nàng đã lớn có một số giới hạn mà nàng không tài nào định lượng được khi suy nghĩ về ánh sáng và bóng tối. Nàng chẳng hề nói với cha, rằng, nàng bắt đầu quen dần với màu của đêm, hoặc không cần đến bóng đèn quả ớt nữa. Nàng đã có thể nhìn thấy những điều mình muốn trong bóng tối một cách dễ dàng. Kể cả chúng, chúng không phải là những sợi dây, những cái màng kết lại với nhau. Chúng không bất động, chúng chạy, chúng làm chủ thể xác và tinh thần của nàng trong bóng tối. Chúng dẫn dắt mọi thứ nàng có ở bất kì không gian nào nàng tồn tại khi bóng tối xuất hiện, tràn đến hể hả mơn trớn với nàng như một gã tử thần chẳng mấy lịch thiệp hào hoa. Nàng nuôi dưỡng bóng tối từ đó, khi không còn nghe cha nói mê trong đêm mỗi lần đi ngủ: “ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Niềm tin rời rạc biến nàng thành một bức tường khổng lồ cố tình ẩn náu sâu kín trong bóng tối.
Nàng vẫn không thể rời khỏi một căn phòng hẹp, nàng không đủ can đảm để bước ra ánh sáng, xuống Orta, uống một tách cà phê sau mười ngày. Nàng chỉ là một nhân viên ráp chữ. Nàng không có bạn. Giờ nàng cũng chẳng có người yêu. Nàng không có những gã tình nhân hờ hững qua đường. Nàng nhớ, cha nàng rời đi khi ánh sáng vẫn còn ngập đầy trước sân nhà mỗi lần tiếng gà gáy vang phía sau vườn cỏ. Mẹ nàng trầm ngâm đốt thuốc lá trên những ngón tay xương gầy, ngắn vụn vỡ. Mẹ ho. Ho sặc sụa. Giọng mẹ bắt đầu khản đặc lại khi gọi cha trong khói, trong sương.
Nàng đã lớn.
Nàng là một cô gái trưởng thành.
Cha nàng vẫn biệt tích dưới bầu trời đêm không trăng sao nhiệt tình cổ vũ mời gọi bóng tối đến. Nàng không yêu cha. Nàng chỉ nhớ những lời cha nói mê, “ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Nàng sẽ không yêu bất kì một người đàn ông nào. Vì họ cũng như ánh sáng.
“Ánh sáng là máu, ánh sáng là nước mắt”. Nàng hát thì thầm. Lời của cha vọng lại bên những hành lang dài sâu trong miền kí ức. Mẹ vẫn còn đốt thuốc. Và, nàng rời đi đến một nơi khác, không có cả cha lẫn mẹ, chỉ có một căn phòng trống, cùng với toàn bộ bóng tối giàu có bủa vây.
Ngày thứ mười, nàng đốt thuốc. Nàng đốt bóng tối tìm kiếm thứ gì đó khác lạ hơn những gì nàng có. Nàng đốt thuốc và soi xuống mu bàn tay mình. Chúng, không phải là thứ bất động, chúng di chuyển đều đặn khắp mọi nơi, kể cả những chỗ mắt nàng không thể nhìn thấy. Chúng có màu xanh. Trong một không gian tối, một chút ánh lửa từ điếu thuốc nàng ngắm nghía chúng, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chúng. Bất giác nước mắt nàng rớt xuống nằm đè lên chúng, di chuyển theo chúng. Cha nàng đã sai, trong bóng tối cũng có những thứ mà cha từng nói mê.
Đêm hôm qua nàng đã nói chuyện với chúng, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa một linh hồn cầu khẩn sự tinh sạch khi nghe tiếng kinh trì níu và một linh hồn quỷ ám đau đớn thể phách khi nhìn thấy ánh sáng. Giữa một căn phòng hẹp với hai chiều kí ức, nàng đã nói chuyện với chúng, những mạch máu của mình. Nàng tò mò cầm lưỡi lam liếc qua những đường màu xanh đó dưới lớp da. Thật kì lạ, màu xanh biến mất. Những giọt màu đỏ rớt trên bàn chân nàng.
Mười ngày hỗn độn giữa ánh sáng và bóng tối, nàng đã biết cách để phân biệt rõ nó, trắng và đen, lặng im hay chuyển động. Nàng nghĩ chỉ cần nằm xuống một nền xi măng lạnh, rồi bắt đầu nhìn những mạch máu dịch chuyển khỏi cơ thể xác phàm bằng một nhát cứa nhẹ lên cổ tay.
Nàng sẽ nằm xuống để lắng nghe bóng tối. Chúng đang cố tình dụ dỗ nàng đặt cược một ván cờ.
T.B.K
(TCSH344/10-2017)
NHẤT LÂMTrời về tối lúc tạnh lúc mưa, lại có gió nên càng mịt mờ như khuya khoắt, nhà nào cũng ăn cơm lúc chập choạng, bởi mưa gió chẳng biết làm gì. Tháng mười chưa cười đã tối. Mùa mưa miền Trung vốn tự cổ xưa đã não nề, những năm chiến tranh càng buồn hơn.
HOÀNG QUỐC HẢI Truyện ngắn lịch sửNăm Nhâm Thân (1392) mùa hạ, thượng hoàng Trần Nghệ Tông xuống chiếu “CẦU LỜI NÓI THẲNG”Thường trong nước mỗi khi có đại sự, nhà vua ban chiếu cầu hiền. Mục đích tìm người tài cho nước.
KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.
CAO HẠNHTôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau, cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia xẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.
HỒ ANH THÁI Tác giả thấy cần phải tóm tắt chuyện cô bé quàng khăn đỏ trước, rồi mới kể tiếp phần hậu cô bé quàng khăn đỏ. Con sói đến lừa bà cô bé, nuốt sống bà, rồi mặc váy áo của bà, trùm khăn giả vờ làm bà. Cô bé về nhà, thấy bà rởm mà không biết, cứ hỏi vớ hỏi vẩn sao tai bà to thế, sao mắt bà to thế, sao mồm bà to thế. Sốt ruột. Con sói bèn nuốt chửng luôn cô bé. Nhưng rồi quần chúng tiến bộ tập hợp lại đấu tranh, con sói phải nôn cả bà lẫn cháu ra, hứa cải tà quy chính. Từ đây bắt đầu phần hậu cô bé quàng khăn đỏ…
PHẠM XUÂN PHỤNGHọ như không còn trẻ. Người lớn tuổi hơn có khuôn mặt thanh thản vì đã giãn mềm những nếp nhăn. Người trẻ tuổi khuôn mặt nhuốm già bởi màu từng trải và những nét khắc chán chường.
MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.
NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!
LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…
TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.
ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.
PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.
NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.
ĐÔNG LA Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.
ĐÀO PHONG LAN Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.
MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...
NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.
NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.
NGUYỄN HÙNG SƠN Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.
LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.