VĨNH AN
Trong bài viết trên báo Nhân dân số 2082, ngày 28/11/1959, ký tên Trần Lực, Bác Hồ đã phát động “Tết trồng cây”: “Chúng tôi đề nghị tổ chức một ngày “Tết trồng cây”. Việc này ít tốn kém mà lợi ích rất nhiều”.
Bác hết sức chú trọng việc phát động toàn dân trồng cây. Bác làm thơ, viết báo, trực tiếp đi trồng cây, nói chuyện và vận động nhân dân tham gia “Tết trồng cây”. Ban đầu Bác viết: “Mùa Xuân là Tết trồng cây/ Làm cho đất nước mỗi ngày một xuân”; sau Bác sửa lại thành “càng ngày càng xuân”. Đã hơn nửa thế kỷ lời kêu gọi và chính Bác phát động “Tết trồng cây” vẫn còn mãi giá trị và đã đi vào nếp sinh hoạt của cán bộ, nhân dân cả nước. Đó là một mỹ tục trong dịp Tết hết sức nhân văn, song cũng rất hiệu quả về kinh tế.
Với Bác, trồng cây là phải thiết thực chứ không chỉ là những con số báo cáo. Bác nói “trồng 100 cây mà sống cả 100 còn hơn trồng 1000 cây mà sống chỉ 90 cây”. Năm 1969, Bác Hồ đi trồng cây ở xã Vật Lại (Hà Tây cũ), có một chuyện khiến nhiều người nhớ mãi. Hôm đó gặp Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Bác hỏi về việc trồng rừng, nghe báo cáo Bác khen và hỏi: “Nghệ An trồng hàng triệu cây, vậy có bao nhiêu cây chết, chú có cho đếm được không?” Bí thư Nghệ An chịu. Bác nói: “Nghệ An là quê Bác, các chú làm không tốt thì Bác vui sao được, các chú chỉ nghĩ đến thành tích mà không nghĩ đến hậu quả, thế cũng là chưa thật thà với nhân dân. Trồng cây nào cũng phải sống tốt cây ấy, phải biết chăm sóc cây, không để lãng phí công sức và của cải vật chất”.
Bác cũng nhiều lần nói về giá trị của việc bảo vệ rừng. Tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi năm 1963, Bác nhắc nhở: “Các cô, các chú cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng. Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nông trường phá một ít, công trường phá một ít, thậm chí đoàn thăm dò địa chất cũng phá một ít, thì rất tai hại. Phá rừng thì dễ, nhưng gây dựng lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”. Người xót xa trước cảnh rừng bị tàn phá, khai thác bừa bãi: “những cây gỗ to bị chặt để đốt hay để cho mục nát thì không khác gì đồng bào tự mình đem tiền bạc bỏ xuống sông”. Người cảnh báo cho toàn thể cán bộ, nhân dân về sự nguy hại của việc chặt phá, khai thác rừng bừa bãi, dẫn đến sự phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất.
Thực tế hiện nay, không ít cơ quan, đơn vị được giao bảo vệ rừng thì lại là người phá rừng hoặc tiếp tay cho bọn lâm tặc phá rừng, mà phá nhiều sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Rừng có “ông chủ” là các cơ quan, đơn vị của nhà nước, nhưng rừng vẫn bị tàn phá. Thực tế ở miền Trung và Tây Nguyên những năm gần đây rừng bị giảm mạnh là do đầu tư thủy điện quá nhiều. Một con số thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết: Chỉ tính riêng từ năm 2013 đến nay, đã có 1.700ha rừng bị tàn phá. Riêng khu vực Tây Nguyên, trong 5 năm 2007 - 2012, có khoảng 130.000ha đã “biến mất”. Năm 2016 diện tích rừng Tây Nguyên giảm 180.000ha so với năm 2010; trữ lượng giảm 57 triệu m3...
Năm 2016 vừa qua, những trận lũ lụt khủng khiếp ở miền Trung đã gây thiệt hại lớn về người và của. Phá rừng được xem là nguyên nhân chính gây nên tình trạng lũ lụt diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Ở nhiều khu vực miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, những vạt rừng xanh đầu nguồn bị tàn phá, đất lâm nghiệp bị xẻ thịt không thương tiếc khiến người dân đã, đang hứng chịu hậu quả. Đáng nói hơn, những dự án thủy điện được cho là mang lại quyền lợi về kinh tế nhưng lại đang trực tiếp phá rừng. Thủy điện không thể chối bỏ trách nhiệm gây ra những trận lụt liên tiếp khủng khiếp trong năm qua. Tất nhiên là không thể đổ hết tất cả các nguyên nhân gây nên lũ lụt, gây nên thiệt hại lên đầu thủy điện; thế nhưng chúng ta nghĩ gì khi mà để làm một thủy điện loại nhỏ, đã phải mất hàng ngàn hecta hồ chứa, rừng phải bị chặt phá để lấy diện tích cho lòng hồ, do đó trách nhiệm của thủy điện trước bao mất mát của đồng bào miền Trung là không thể bao biện. Các dự án thủy điện ở miền Trung luôn đưa ra những hứa hẹn về điều tiết lũ, cắt giảm lũ; họ cũng hứa trồng rừng, trả lại rừng khi nhà máy thủy điện đi vào vận hành. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều thủy điện đã xả lũ vô trách nhiệm, và cũng nhiều diện tích rừng đã mất chưa hề được trồng lại. Chưa kể là nhiều thủy điện hoàn trả rừng bằng cách trồng cây cao su, họ vừa trồng vừa lớn tiếng: “Cây cao su là cây đa mục tiêu, phát triển kinh tế, chống xói lở, phòng chống lũ”. Vậy nhưng thực tế cây cao su trồng cách nhau mỗi cây là 5m, không ngăn được mưa lũ, mưa và đá cứ thế chảy tuột vào nhà dân. Không thể mãi để tình trạng cứ mưa lũ là toàn vùng bị thiệt hại toàn diện như hiện nay, chính sách trả lại rừng của các thủy điện cần phải giám sát chặt chẽ và thông tin rộng rãi.
Một thực tế khác của trồng rừng: Hơn nửa thế kỷ qua, nước ta chỉ quan tâm nhập khẩu các giống cây giá trị kinh tế và sinh thái không cao, thậm chí là nghèo kiệt đất như keo lá tràm, keo tai tượng, bạch đàn (chỉ vài tuổi là khai thác làm nguyên liệu giấy, làm dăm gỗ xuất khẩu)… mà bỏ quên các giống cây rừng nhiệt đới vốn đã thích nghi khí hậu thổ nhưỡng, có tác dụng giữ nước, cản lũ rất tốt, giá trị kinh tế cao…
Tính đến cuối năm 2015, cả nước có trên 14 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đạt 40,84%. So với năm 2014, tổng diện tích rừng cả nước tăng 265.350 ha; độ che phủ rừng tăng 0,41%. Có thể nói từ năm 2015, cả nước đã cơ bản chặn được tình trạng suy giảm về diện tích rừng tự nhiên (như đã xảy ra trong các năm 2013, 2014 so với năm 2012). Song cũng cần nhìn nhận một cách khách quan là tài nguyên rừng đang đứng trước nhiều thách thức, tác động từ những yếu tố, điều kiện khách quan như biến đổi khí hậu, sức ép từ phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các yếu tố chủ quan từ tác động của con người, trong đó phải kể đến là trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp, các lực lượng làm công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Trong thư gởi Đại hội Hợp tác xã và đội sản xuất tiên tiến miền núi và trung du, Bác Hồ nhắc nhở: “Phải bảo vệ rừng như bảo vệ nhà cửa của mình”.
Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn; nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.
Mùa xuân, nhớ lời dặn “Tết trồng cây” do Bác Hồ phát động từ năm 1959, nay vẫn còn rất thời sự. Bảo vệ rừng và trồng rừng, đó cũng là cách thiết thực nhất trong việc học tập đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
V.A
(TCSH336/02-2017)
Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.