Mùa Chạp

09:23 27/11/2008
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

Tuy ở xa nhưng hầu như năm nào tôi cũng có mặt trong ngày Chạp của gia đình. Đó cũng là dịp để gặp gỡ bà con họ hàng sau một năm xa cách. Năm nay tôi về Huế Chạp mộ đúng vào dịp Trường trung học cơ sở xã Thủy An (Thành phố Huế) được quyết định đổi tên thành Trường trung học cơ sở Đặng văn Ngữ (nằm trên con đường cũng mang tên Đặng văn Ngữ). Tôi cùng một vài người thân đại diện gia đình được mời đến dự lễ đổi tên trường.

Buổi lễ được tổ chức giản dị nhưng trọng thể. Ấn tượng nhất đối với tôi là màn kể chuyện có diễn xuất minh họa về cuộc đời của Giáo sư Đặng văn Ngữ do các em học sinh thực hiện dưới sự dàn dựng của một cô giáo dạy văn. Cả cuộc đời của cha tôi từ khi đi học ở Huế cho đến khi sang du học tại Nhật, rồi trở về nước tham gia Kháng chiến chống Pháp, sản xuất nước lọc Penicilline. Rồi công cuộc tiêu diệt sốt rét trên miền Bắc, những ngày vào chiến trường Trị Thiên để nghiên cứu vắc xin chống sốt rét cho bộ đội và rồi hy sinh trong một trận bom B52... Tất cả đều được các em học sinh tái hiện trước mắt tôi một cách vừa hồn nhiên vừa chân thành làm tôi phải rơi nước mắt (thú thật từ trước đến nay chưa bao giờ tôi khóc khi đi xem bất cứ vở kịch hay cuộc trình diễn sân khấu nào). Tôi bồi hồi nhớ lại ngôi trường này trước kia là trường Tiểu học An Cựu, nơi tôi đã từng ngày hai buổi cắp sách đến trường trong 5 năm của bậc tiểu học. Ngày thống nhất trở về, tôi có tìm hỏi thăm các thầy cũ nhưng không gặp được một ai, nghe nói có thầy đi sỹ quan Đà Lạt, giờ không biết lưu lạc ở đâu.

Nhưng có một trường tiểu học khác từng gắn bó với tôi bằng một duyên cớ thật ngẫu nhiên và cảm động, đó là trường tiểu học xã Phong Mỹ huyện Phong Điền ở phía Tây Thừa Thiên Huế. Năm 1995 một người tiều phu ở xã Phong Mỹ thường vào rừng chặt mây đem về bán, trong một chuyến đi đã tình cờ phát hiện có 4 ngôi mộ nằm liền nhau thành một dẫy trên bờ một con suối. Trở về anh liền thông báo cho lãnh đạo địa phương biết và xã đội Phong Mỹ đã cử người đi bốc về. Họ phải đi mất hai ngày mới đến được bờ suối nơi có 4 ngôi mộ. Khi đào lên trong mỗi ngôi mộ là một bọc vải dù đựng hài cốt (không đầy đủ) với một tấm biển nhôm khắc dòng chữ tên người và ngày mất: 1– 4– 1967. Cả 4 người đều mất trong cùng một ngày. Một trong 4 tấm biển nhôm đó có khắc tên: Đặng Văn Ngữ. Đoàn bốc mộ đưa 4 bộ hài cốt về quy tập tại nghĩa trang liệt sỹ của xã như mộ những liệt sỹ chưa biết rõ tông tích. Vậy là cha tôi đã nằm trong nghĩa trang đó suốt 5 năm cho đến khi anh em chúng tôi dò tìm ra được. Suốt 5 năm đó người chăm sóc hương khói cho cha tôi cùng đồng đội là các thầy cô giáo cùng các em học sinh trường tiểu học xã Phong Mỹ. Ngôi trường nằm ngay bên cạnh nghĩa trang, chỉ cách một con đường.

Hàng năm cứ đến ngày thương binh liệt sỹ, ngày quốc khánh, ngày Tết thầy trò của trường sang nhổ cỏ, quét dọn nghĩa trang sạch sẽ, đặt những bó hoa, và thắp hương trên các ngôi mộ. Cả trường và cả địa phuơng cũng không biết đấy là mộ của ai, chỉ biết đó là mộ của những người đã ngã xuống vì sự nghiệp chung. Cái đêm gia đình tôi ngồi ở nghĩa trang chờ sáng để đưa hài cốt cha tôi về chôn cất trong nghĩa trang Đặng tộc trên núi Ngự Bình là một đêm thật khó quên. Các thầy cô giáo của trường đã thức suốt đêm cùng chúng tôi bên ngôi mộ mà cho đến bây giờ họ mới biết đó là mộ của một nhà khoa học nổi tiếng đã hy sinh ngay trên quê hương họ. Năm giờ sáng hôm sau các em học sinh đã tề tựu đông đủ, đứng xếp hàng dọc hai bên đường tiễn biệt linh hồn cha tôi trở về với những người thân. Giây phút đó thật thiêng liêng. Tôi bỗng nhớ tới lời trong một ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: “Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi...”. Thật vậy, mảnh đất này trở nên linh thiêng vì có những con người đẹp đẽ đã ngã xuống và tôi đã nhìn thấy rất nhiều những nụ cười trên môi các thầy các cô và các em học sinh trong buổi lễ đặt tên trường Đặng Văn Ngữ hôm ấy.

Mùa đông năm nay Huế mưa nhiều và lạnh, một cái lạnh len lỏi thấm vào bên trong da thịt người. Trước khi tôi vào đây, mưa đã một tháng ròng chưa dứt. Con đường từ chợ An Cựu chạy dọc ven sông lầy lội, nước đọng thành từng vũng bắn lên người mỗi khi có ôtô hoặc xe máy phóng nhanh qua. Hơn năm mươi năm trước tôi cũng từng lội bùn như thế này để cắp sách đến trường trong chiếc áo tơi lá như vỏ một con ve sầu vào những ngày mưa. Con đường nay vẫn thế. Có về Huế vào những ngày mưa mới thấy hết cái nghèo của mảnh đất này. “Quê hương em nghèo lắm ai ơi... Mùa đông thiếu áo hè thì thiếu ăn... Trời hành cơn lụt mỗi năm...” Phải công nhận rằng ba mươi năm qua Huế đã có nhiều thay đổi. Nhiều công sở khang trang được xây dựng, nhiều khách sạn, nhà hàng sang trọng mọc lên, nhiều lễ hội tưng bừng được tổ chức. Nhưng chỉ cần rời xa thành phố một chút thôi, trong một buổi chiều mưa là ta có thể cảm nhận được hết nỗi niềm xót xa của câu hát trên. Cách đây 5 năm khi tìm đến gia đình người tiều phu ở xã Phong Mỹ để cám ơn về việc phát hiện ra ngôi mộ cha tôi cùng đồng đội, tôi đã phải nhói trong tim khi nhìn thấy cái lều tranh tồi tàn với đàn con nhỏ gầy gò và một bà mẹ già đang ốm nặng nằm trên giường. Gia đình người tiều phu ấy nay đã dạt vào tận Miền đông Nam Bộ để kiếm sống. Năm nào gần Tết tôi cũng nhận được thư anh cho biết đời sống vẫn còn khó khăn lắm, làm không đủ để nuôi 3 đứa con nhỏ ăn học.

Xoá đói giảm nghèo không chỉ là mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của xã hội mà còn là việc làm của lương tâm mỗi người. Tôi có ông cậu là Tôn Thất Lôi (em ruột mẹ) trước 75 làm hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm Huế. Từ ngày về hưu sau giải phóng chỉ mải mê làm một việc: cho bà con nông dân nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh. Cả đời làm nghề giáo cậu tôi làm gì có vốn. Nhưng cậu tôi có một ông bạn Việt kiều, muốn giúp bà con ở quê mình một cách thiết thực, sẵn sàng gửi tiền về cho ông lập một cái quỹ cho ngừơi nghèo vay vốn. Hơn mười lăm năm nay quỹ do cậu tôi quản lý không bị hao hụt và hàng trăm nông dân nghèo nhờ quỹ đó mà đời sống trở nên ngày càng khá giả. Việc vay vốn không cần thủ tục rườm rà, chỉ một mình ông quyết, không phải dấu má thế chấp hoặc xin ý kiến của ai. Toàn bộ sổ sách giấy tờ một mình cậu tôi quán xuyến, không bao giờ nhầm lẫn (ông là nhà giáo mà).

Cậu tôi nói: Cậu không xoá đói giảm nghèo được cho cả nước thì ít nhất cậu cũng xoá đói giảm nghèo được cho một làng. Ông làm việc đó một cách say sưa, lấy đó làm niềm vui tuổi già thay vì sinh hoạt tổ thơ, nuôi chim hay trồng cây cảnh (mặc dầu nhà ông ở Huế nổi tiếng có rất nhiều loại hoa quý). Ông có người em ruột hoạt động bí mật trong nội thành Huế vào những năm chống Pháp, đã hy sinh. Căn nhà “rường” của ông ở thôn Lại Thế là nơi lui tới của các cán bộ Việt Minh. Ông chỉ cho tôi cái “tra” (gác xép bằng gỗ) nơi thường cất giấu tài liệu. Khi địch ập đến bất ngờ thì đó là nơi ẩn nấp của cán bộ. Trong kháng chiến ông là cơ sở bí mật, nay trong hoà bình ông làm việc xoá đói giảm nghèo. Cả hai việc ông đều làm một cách lặng lẽ tự nguyện chẳng có ai vận động hay giác ngộ. Tất cả đều xuất phát từ lương tâm của một người thầy giáo và của một huynh trưởng hướng đạo (trước 75 ông là một người hoạt động tích cực trong phong trào hướng đạo ở Huế mà ai cũng biết). Gần đây phong trào gây quỹ giúp đỡ người nghèo, quỹ từ thiện, trao học bổng cho học sinh nghèo v.v... đã trở thành nếp sinh hoạt quen thuộc trong đời sống. Những người như cậu tôi có rất nhiều.

Tôi đến thăm chùa Giác Lâm, một ngôi chùa nằm dưới chân núi Ngự Bình. Sư thầy năm nay đã hơn 90, tai không còn nghe rõ nhưng trí óc vẫn còn rất minh mẫn. Nhìn thấy tôi, sư thầy liền tươi cười nói: Bữa trước vừa thấy ông trên Ti vi. Năm 1975, không lâu sau giải phóng, tôi có đến thăm chùa. Hồi nhỏ tôi vẫn thường theo mẹ lui tới đây những ngày rằm mồng một, hoặc những dịp lễ Phật Đản. Mẹ tôi nay không còn, nhưng lạ thay khi nhìn thấy tôi sư thầy liền hỏi ngay: Có phải con bà Cung đấy không? Tôi giật mình trước câu hỏi của thầy, tưởng như chưa từng có 26 năm xa cách, chưa từng có chiến tranh chia ly, chưa từng có mất mát... Tôi cảm thấy như mình thuộc về chốn này đã từ lâu và gắn bó với ngôi chùa này từ sau câu hỏi thân tình đó. Lần nào về Huế tôi cũng không quên đến thăm chùa và lần nào chia tay, tôi cũng thầm mong Chạp sang năm về còn được gặp lại thầy.

Huế vẫn mưa và trời vẫn lạnh, nhưng lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ thường. Một niềm tin mơ hồ cứ dâng lên trong lòng chẳng rõ duyên cớ.... Hay bởi tại mùa xuân đang đến gần?
Đ.N.M
(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.