Một số hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương Việt Nam

10:41 25/06/2009
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

Pidgins là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn ngữ lai tạp có phạm vi sử dụng hẹp. Pidgins hình thành từ cơ sở thực tiễn xã hội có nhiều xáo trộn về lịch sử như sự xâm chiếm lãnh thổ của các đế quốc thực dân; như sự giao thương giữa các nền kinh tế; sự truyền đạo của các nhà truyền giáo... Trong quá trình giao tiếp với những mục đích khác nhau cũng như nhu cầu hiểu biết lẫn nhau, sự bất đồng ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp hình thành nên hiện tượng Pidgins.

Trong xã hội tồn tại các loại ngôn ngữ khác nhau, giữa các đối tượng giao tiếp, với tất cả khả năng vận dụng, người ta vừa dùng ngôn ngữ này (tiếng này) với ngôn ngữ kia nhằm vào đích sử dụng là tìm tiếng nói chung, cốt để hiểu nhau, bất chấp mọi thuộc tính ngữ pháp của từng ngôn ngữ.

Hoàn cảnh giao tiếp cùng với những diễn tiến xã hội đã quyết định số phận tồn tại và phát triển của Pidgins. Vì vậy chúng ta có thể thấy rõ về hiện tượng tồn tại khá dài của một số Pidgins cũng như thời gian tồn tại rất ngắn của những Pidgins khác.

Không giống như Pidgins, Creoles là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn ngữ lai tạp có phạm vi sử dụng rộng, và thực chất có thể hiểu rằng Creoles là Pidgins đã trở thành ngôn ngữ có phạm vi sử dụng rộng; hay Creoles chẳng qua là sự phát triển của Pidgins ở một không gian, môi trường giao tiếp rộng hơn mà thôi. Cũng như có thể hình dung rằng, Pidgins và Creoles là hai giai đoạn trong một quá trình đơn giản của sự phát triển ngôn ngữ.

Có thể hình dung đó là một quá trình vận động của việc sử dụng ngôn ngữ. Khi mới hình thành trong một cộng đồng nói năng, Pidgins được sử dụng trong một phạm vi rất hẹp. Về sau, nhu cầu giao tiếp đã làm tăng lượng người sử dụng, phạm vi giao tiếp của Pidgins được mở rộng, củng cố rồi phát triển rồi trở thành Creoles. Đặc trưng của Pidgins là vốn từ vựng ít ỏi, kết cấu ngữ pháp đơn giản, khi chuyển thành Creoles thì tất nhiên các bình diện từ vựng, ngữ pháp sẽ được mở rộng.

Nhìn chung, Pidgins và Creoles đều là những hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ, chỉ phân biệt nhau ở mức độ và phạm vi sử dụng; ở vốn từ và cấu trúc ngữ pháp; ở đối tượng sử dụng nhiều hay ít...với những đặc trưng ngôn ngữ mang tính xã hội, mà nguyên nhân hình thành và phát triển chính là nhu cầu hiểu nhau trong một cộng đồng nói năng tồn tại nhiều ngôn ngữ ở các đối tượng giao tiếp.

Trong văn chương Việt Nam, hiện tượng ngôn ngữ lai tạp được thể hiện khá đặc trưng với những diễn biến phong phú, làm nên một sắc diện mới mẻ, độc đáo trong ngôn ngữ.

So với hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ giao tiếp, hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương Việt Nam có nhiều đặc trưng riêng. Lai tạp trong ngôn ngữ văn chương đã tạo nên những hiện tượng lai tạp khá đặc biệt, tạo nên một nét riêng của ngôn ngữ lai tạp được hình thành trong quá trình sử dụng ngôn ngữ từ mục đích giao tiếp đến ý đồ nghệ thuật.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy, vào chế độ quân chủ ở Việt Nam, người Việt sử dụng cả hai hình thức ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói). Tiếng Việt qua các giai đoạn sau được ghi lại bằng hai hình thức đó là chữ Nôm (theo hệ chữ vuông) và chữ Quốc ngữ (theo hệ La-tinh). Khi sử dụng cả hai loại ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói) dẫu chẳng cần đến một Pidgins nào để "hiểu nhau" nhưng trong văn chương hiện tượng lai tạp này vẫn diễn ra và trở thành sản phẩm trí tuệ của thời đại này.

Sự lai tạp các yếu tố Hán và Nôm; Nôm và Hán trong những tác phẩm thi ca, câu đối một mặt là sản phẩm của xã hội có song thể ngữ, mặt khác lại là sản phẩm đặc biệt của những cá nhân sử dụng ngôn ngữ với những mục đích rõ ràng. Tuy những hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương ở giai đoạn này không nhằm mục đích để hình thành Pidgins, nghĩa là không dùng với mục đích giao tế, nhưng tính chất lai tạp thể hiện trong chúng là rất rõ nét với ý thức cụ thể. Hiện tượng lai tạp kiểu này đã trở thành một ý đồ nghệ thuật- nghệ thuật chơi chữ với những cách thức phô diễn trí tuệ qua chữ nghĩa cũng như hướng đến những đích thẩm mỹ nhất định.

Vào thời Nguyễn (1802-1945), ở Huế, có một bài thơ chữ Hán, trong đó, mỗi câu đều có hai chữ Nôm (vốn được truyền là của Chu thần Cao Bá Quát - đọc ghép theo hai câu thực của vua Tự Đức) như sau:

Phiên âm:

Bảo mã tây phong huếch hoác lai
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

Dịch thơ:

Huếch hoác gió phi tiếng ngựa lồng
Huênh hoang người tự bước vào trong
Giữa vườn oanh hót khề khà tiếng
Ngoài ruộng đào bung lấm tấm bông
Lộp bộp sương reo nghe xuân sớm
Bài nhài mưa rụng thấy thu không
Khù khờ tứ cũ thơ quen điệu
Khệnh khạng mai sau hỏi tú công.
                                (Hải Trung dịch)

Ở đây, có các yếu tố huếch hoác; huênh hoang; khề khà; tấm tấm; lộp bộp; bài nhài; khù khờ; khệnh khạng đều là chữ Nôm với nét nghĩa thuần Việt tồn tại đều đặn trong tám câu của một bài thơ chữ Hán thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đây là sự lai tạp cố ý với dụng ý nghệ thuật rõ nét, và tất nhiên phải giỏi chữ nghĩa mới có thể tạo lập được dạng văn bản kiểu này.

Đối lập với kiểu lai tạp Hán-Nôm vừa đề cập, hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ Nôm- Hán trong văn học trung đại khá phổ biến với những đặc điểm khá rõ nét là tiếng Việt có một lượng từ gốc Hán khá lớn. Không kể rất nhiều bài thơ có sự lai tạp, hay nói đúng hơn là sử dụng từ Hán Việt một cách tự nhiên theo những kết hợp thường gặp trong tổ chức ngôn ngữ, thì có một số bài sử dụng từ Hán Việt có những đặc trưng rất riêng, rất điển hình với những sắc thái nghĩa rất rõ nét. Có thể xem đây như là một trường hợp lai tạp ngôn ngữ, tuy không nhằm vào đích là tạo Pidgins:

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
                (Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)

Ở đây, không kể đến các yếu tố gốc Hán như tạo hoá, cuộc, hồn, thành, lâu đài, cảnh, thì toàn bộ các từ như hí trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường... được phân bố ở cuối các câu đã tạo nên những âm vang, sắc màu cổ kính, phảng phất về dĩ vãng rất phù hợp với tính chất hoài niệm về một Thăng Long thành. Tuy các bộ phận từ Hán Việt được xem như là những từ của tiếng Việt, vay mượn từ tiếng Hán và được phát âm theo cách của người Việt, nhưng quá trình sử dụng và trộn mã (ở đây chỉ xác định trộn mã với tư cách là kết hợp thông thường) của các loại phong cách ngôn ngữ là hoàn toàn khác nhau. Xu hướng của những thể loại thơ hoài cổ thường sử dụng từ Hán Việt với mật độ cao, nhưng kiểu Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan là hoàn toàn khác, không phải là sự trộn mã ngẫu nhiên, thuận theo dòng xúc cảm, mà là sự cố ý lai tạp ngôn ngữ được phân bố thành hai khu vực rất rõ trong một câu: dãy thuần Việt và dãy Hán Việt. Hay ở trường hợp Chiều hôm nhớ nhà, sự kết hợp đồng dạng kiểu này cũng diễn ra tương tự:

Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
                (Bà Huyện Thanh Quan)

Sắc thái biểu cảm đặc trưng của từ Hán Việt là mang sắc màu tĩnh tại, bất động gây ấn tượng nhoè về nghĩa, vang về âm, câu thơ trên không cho chúng ta một bức tranh cụ thể của một ông lão đánh cá, của chú bé chăn trâu trong bối cảnh một khu phố xa, một thôn làng hoang vắng...mà chỉ gợi lên những nét hoạ về các ý niệm ngư ông, mục tử với các tiểu cảnh của viễn phố, cô thôn đã tồn tại sẵn, chìm trong trong tiềm thức Đông phương...

Trong kho tàng văn chương Việt Nam, có rất nhiều câu thơ, câu đối thể hiện sự kết hợp lai tạp giữa các yếu tố Việt và Hán. Đó là những hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa khá thú vị. Trong bài Qua đèo ngang, Bà Huyện Thanh Quan đã viết:      

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(1)

Ở câu này, các yếu tố quốc, gia đồng nghĩa với nước, nhà. Ngoài ra, quốc quốc lại đồng âm với cuốc cuốc (tiếng kêu của con chim cuốc); gia gia đồng âm với da da (một cách gọi khác của chim đa đa). Hay ở câu: Da trắng vỗ bì bạch thì bì bạch ở đây vừa là từ tượng thanh (nếu chỉ xét là một từ thuần Việt) miêu tả bổ sung cho nét nghĩa của vỗ, đồng thời lại có nghĩa là da trắng (nếu xét là từ Hán Việt). Kéo theo câu này là hàng loạt các câu đối lại với tính chất như thế, như: Trời xanh màu thiên thanh, Giếng nhỏ bé tỉnh tinh, Nhà vàng ngồi đàng (đường) hoàng, Tay tơ sờ tí ti...Hay hai câu đối vừa Việt vừa Hán dưới đây có cách tổ chức các đơn vị ngôn ngữ khá rõ trong ý nghĩa lai tạp:     

Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp
Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê
(2)

Trong hai câu trên có bốn cặp từ thể hiện hiện tượng đồng nghĩa thuần Việt-Hán Việt: bươm bướm- hồ điệp; cành sen- liên chi; gà trống- hùng kê; thóc- cốc, bên cạnh đó là hiện tượng đa nghĩa ở các từ Hán- Việt: nếu là liên chi (
) nghĩa là liền cành, nếu là liên chi ( ) nghĩa là cành sen; nếu là cốc đế ( ) nghĩa là chim cốc, nếu là cốc đế ( ) nghĩa là già cỗi (3).

Nhìn chung, là sản phẩm của lịch sử, do trước đây, người Việt sử dụng cả hai hình thức ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói) và sau này có sự ra đời của chữ Nôm, việc lai tạp các yếu tố khác mã trong ngôn ngữ trong cùng một văn bản nghệ thuật đã tạo nên hiện tượng lai tạp ngôn ngữ khá đặc sắc. Hơn nữa, do đặc điểm tiếng Việt vốn có hai loại từ cơ sở là thuần Việt và Hán Việt nên việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tế cũng như nghệ thuật có sự trộn mã một cách tự nhiên, không một chút khiên cưỡng, nếu vận dụng lựa chọn, kết hợp khéo léo sẽ tạo ra những hiệu quả thẩm mỹ cao. Đó là một quá trình lai tạp rất đặc biệt, trở thành sản phẩm trí tuệ của những giai đoạn lịch sử khác nhau.

Sự phát triển và tồn tại của Pidgins liên quan chặt chẽ với những diễn tiến xã hội, gắn liền với những môi trường, bối cảnh và mục đích giao tiếp. Ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đến khoảng những năm 1950 của thế kỷ XX, ngót nghét 80 năm, Pidgins Việt- Pháp đã tồn tại ở Việt Nam(4) cùng với chế độ thực dân. Tiếp theo là 20 năm Pidgins Việt -Anh ở miền Nam Việt Nam cùng với sự tồn tại của chế độ Mỹ Ngụy. Chính sự tồn tại của những hình thức Pidgins này cũng tạo cơ sở cho thể loại thơ ca dân gian phát triển với tính chất trào lộng, trở thành những nét đặc sắc trong mảng thơ ca trào phúng giai đoạn này. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của Pidgins Việt- Pháp, hàng loạt bài thơ trào phúng đã ra đời.

Đặc điểm của loại hình thi ca này là sử dụng cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp trong cùng mạch diễn đạt, cách đọc tiếng Pháp cũng không đúng với âm chuẩn, ép ngữ âm tiếng Pháp nhằm phù hợp với nguyên tắc hiệp vần của thể lục bát. Chẳng hạn:  

Sao toa vội gót trở Ăng-phoong
Bạc bẽo làm chi hỡi đi- đoòng
Chắp cánh bay cao lòng cá-nác
Dừng chân đứng lại phận cô-soong
Sụt sùi moa những nhìn la-pốt
Năn nỉ sừ ơi nỗi lạc-gioòng
Một tiếng ô-voa không kể xiết
Xa người xa cả cán ba-toong.
(5)

Đó không đơn thuần chỉ là lối chơi chữ mang màu sắc hình thức, bài thơ đã thể hiện lối lai tạp đặc trưng. Ngoài cách kết cấu nhịp nhàng, được phát triển từ cơ sở Pidgins Việt- Pháp, nội dung bài thơ mang nội dung xã hội sâu sắc: mỉa mai thói tật ở đời, thật sự có tác động thẩm mỹ đến người đọc; và hình thức vẫn đảm bảo được tính chất đối ngẫu của một bài Đường luật.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, sự phát triển của hiện tượng Pidgins Việt- Pháp đã trở nên mạnh mẽ trước nhu cầu giao tiếp của xã hội. Một bộ phận lao động trong xã hội đã sáng tạo ra một lối “tam thiên tự” mới vận dụng để học tiếng Pháp lúc bấy giờ.

Khi học tiếng Hán, trước đây đã có tam thiên tự với lối đọc có vần điệu nhịp nhàng như: thiên trời, địa đất, tử mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước... Đến giờ người ta cũng sáng tạo ra lối nói vần vè kiểu này, nhưng bằng thể lục bát, để học nhanh tiếng Pháp với đặc tính là dễ nhớ, lâu quên:Đit mười, oong một, xăng trăm/ Toa ba, huýt tám, xanh năm, min nghìn/ Vạn thời tiếng gọi đit-min... (6)

Đả kích vào những cô gái Việt Nam lấy người Tây, một hiện tượng bị lên án gay gắt vào thời bấy giờ, thơ trào phúng Pidgins Việt- Pháp có rất nhiều bài. Phổ biến vẫn là lối lai tạp ngôn ngữ sử dụng các lối kết hợp theo tập quán của ngữ pháp, của cách tổ chức ngôn ngữ thơ Việt Nam. Có thể kể ra hàng loạt bài hình thành theo lối này (lúc chia xa nhân vật trong bài thơ vẫn vọng tưởng không nguôi thương nhớ đến người xưa, thổn thức trong niềm đơn côi đến chán chường):

Dê-cờ-ri tình thơ uynh-lét
Để cho mình con-nét mông-cơ
Từ khi mình kit-tê-dơ
Bon-nơ cũng lắm, ma-lơ cũng nhiều
...(7)

Hay là:    

Moa kit-tê vu mạch-tớ-nằng
(...) Mặc ai cẩm-lách với a-măng
(8)

Theo quan điểm của David Crystal trong Bách khoa ngôn ngữ học thì trên thế giới có 100 Pidgins và Creoles. Trong đó, Việt Nam có hai Pidgins: một được xây dựng trên cơ sở tiếng Pháp, được dùng rộng rãi ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, bây giờ không còn tồn tại nữa; một được xây dựng trên cơ sở tiếng Anh, được sử dụng ở Việt Nam giữa người dân bản địa với các nhân viên người Mỹ, hiện nay cũng không còn tồn tại nữa (9).

Rõ ràng những dẫn chứng qua các tác phẩm văn chương bình dân vừa đề cập là những minh chứng khá thuyết phục cho sự tồn tại của hình thức Pidgins Việt-Pháp. Việc sử dụng khá rộng rãi của hình thức Pidgins này đã làm hình thành nhiều hiện tượng ngôn ngữ thể hiện ở nhiều dạng phong cách ngôn ngữ khác nhau. Điều đặc biệt đó là sự tồn tại của Pidgins trong phong cách ngôn ngữ văn chương, một hiện tượng rất hiếm trong các loại ngôn ngữ khác trên thế giới.

Pidgins với tất cả những đặc trưng của nó thật sự đã trở thành một bộ phận ngôn ngữ mang những yếu tố xã hội rất cao. Sự tồn tại của nó gắn chặt với sự tồn tại của những bối cảnh xã hội, những như cầu bức bách trong quá trình giao tiếp.

Xuất hiện với tư cách là ngôn ngữ bình dân, là sản phẩm của một bộ phận giao tiếp trong xã hội nhưng lại được sử dụng trong ý nghĩa là phương tiện biểu đạt văn chương đã thể hiện rõ khả năng của Pidgins. Điều này cũng cho thấy quá trình tiếp xúc ngôn ngữ trong tiếng Việt. Từ sự kết hợp của các yếu tố thuần Việt (thông qua sự ghi lại của các hình vị Nôm) với các yếu tố tiếng Hán đến sự kết hợp của tiếng Việt (thông qua sự ghi lại của các hình vị la-tinh) với các yếu tố tiếng Pháp đều có thể cho phép chúng ta nghĩ rằng, với đặc trưng ngôn ngữ của mình, tiếng Việt có khả năng và xu hướng có thể kết hợp với các yếu tố lai tạp rất cao, đặc biệt trong nghệ thuật. Qua đó, cũng phần nào thấy được bức tranh xã hội của Việt Nam vào những giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt là tâm hồn của người Việt, trong phạm vi ngôn ngữ nào đều cũng để lại những sản phẩm văn chương thú vị, góp phần làm giàu kho tàng tiếng Việt.

H.T
(178/12-03)

-----------------------
(1) Có tài liệu ghi là con cuốc cuốc... cái da da (H.T).
Câu này dẫn theo PGs Hồ Lê, Ts Lê Trung Hoa, Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt (Thú chơi chữ), Nxb KHXH, Hà Nội, 2002, trang 142.
(2) Dẫn theo PGs Hồ Lê, Ts Lê Trung Hoa, như trên, trang 146.
(3) Liên chi hồ điệp: có thể hiểu theo các nghĩa: Bươm bướm (đậu) cành sen; cành sen, bươm bướm; liên tiếp nhau (nghĩa thoát). Cốc đế hùng kê: có thể hiểu theo các nghĩa: gà trống già cốc đế (khú đế); chim cốc, gà trống.
(4) Theo quan điểm của Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội-những vấn đề cơ bản, Nxb KHXH, 1999, trang 77.
(5) Ăng-phoong (en France): về Pháp; đi-đoòng (dis-donc): vậy, hãy nói đi; cá-nác (canard): con vịt; cô-soong (cochon): con lợn; la-pốt (la poche): cái túi, cái ví; lạc-gioòng (l'argent): tiền bạc; ô-voa (au revoir): tạm biệt; ba-toong (bâton): cây ba-toong.
(6) Đit (dix):10; oong (un):1; xăng (cent): 100; toa (trois): 3; huýt (huit):8; xanh (cinq):5; min (mille): nghìn; đit-min (dix-mille): một vạn.
(7) Dê-cờ-ri (J'écris): tôi viết; uynh-lét (une lettre): một bức thư; con-nét mông-cơ (connaitre mon coeur): hiểu lòng tôi; kit-tê-dơ (đáng lẽ phải là je te quitte): ý là chia tay; Bon-nơ (bonheur): hạnh phúc; ma-lơ (malheur): bất hạnh.
(8) Moa kit-tê vu mạch-tớ-nằng (Moi quitter vous maintenant): bây giờ tôi phải xa anh, đúng ngữ pháp và kết cấu tiếng Pháp là moi, je vous quitte; cẩm lách (camarade): bạn; a-măng (amant): người tình.
(9) Dẫn theo Nguyễn Văn Khang, sách đã dẫn, trang 76.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).