Một số hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương Việt Nam

10:41 25/06/2009
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

Pidgins là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn ngữ lai tạp có phạm vi sử dụng hẹp. Pidgins hình thành từ cơ sở thực tiễn xã hội có nhiều xáo trộn về lịch sử như sự xâm chiếm lãnh thổ của các đế quốc thực dân; như sự giao thương giữa các nền kinh tế; sự truyền đạo của các nhà truyền giáo... Trong quá trình giao tiếp với những mục đích khác nhau cũng như nhu cầu hiểu biết lẫn nhau, sự bất đồng ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp hình thành nên hiện tượng Pidgins.

Trong xã hội tồn tại các loại ngôn ngữ khác nhau, giữa các đối tượng giao tiếp, với tất cả khả năng vận dụng, người ta vừa dùng ngôn ngữ này (tiếng này) với ngôn ngữ kia nhằm vào đích sử dụng là tìm tiếng nói chung, cốt để hiểu nhau, bất chấp mọi thuộc tính ngữ pháp của từng ngôn ngữ.

Hoàn cảnh giao tiếp cùng với những diễn tiến xã hội đã quyết định số phận tồn tại và phát triển của Pidgins. Vì vậy chúng ta có thể thấy rõ về hiện tượng tồn tại khá dài của một số Pidgins cũng như thời gian tồn tại rất ngắn của những Pidgins khác.

Không giống như Pidgins, Creoles là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn ngữ lai tạp có phạm vi sử dụng rộng, và thực chất có thể hiểu rằng Creoles là Pidgins đã trở thành ngôn ngữ có phạm vi sử dụng rộng; hay Creoles chẳng qua là sự phát triển của Pidgins ở một không gian, môi trường giao tiếp rộng hơn mà thôi. Cũng như có thể hình dung rằng, Pidgins và Creoles là hai giai đoạn trong một quá trình đơn giản của sự phát triển ngôn ngữ.

Có thể hình dung đó là một quá trình vận động của việc sử dụng ngôn ngữ. Khi mới hình thành trong một cộng đồng nói năng, Pidgins được sử dụng trong một phạm vi rất hẹp. Về sau, nhu cầu giao tiếp đã làm tăng lượng người sử dụng, phạm vi giao tiếp của Pidgins được mở rộng, củng cố rồi phát triển rồi trở thành Creoles. Đặc trưng của Pidgins là vốn từ vựng ít ỏi, kết cấu ngữ pháp đơn giản, khi chuyển thành Creoles thì tất nhiên các bình diện từ vựng, ngữ pháp sẽ được mở rộng.

Nhìn chung, Pidgins và Creoles đều là những hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ, chỉ phân biệt nhau ở mức độ và phạm vi sử dụng; ở vốn từ và cấu trúc ngữ pháp; ở đối tượng sử dụng nhiều hay ít...với những đặc trưng ngôn ngữ mang tính xã hội, mà nguyên nhân hình thành và phát triển chính là nhu cầu hiểu nhau trong một cộng đồng nói năng tồn tại nhiều ngôn ngữ ở các đối tượng giao tiếp.

Trong văn chương Việt Nam, hiện tượng ngôn ngữ lai tạp được thể hiện khá đặc trưng với những diễn biến phong phú, làm nên một sắc diện mới mẻ, độc đáo trong ngôn ngữ.

So với hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ giao tiếp, hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương Việt Nam có nhiều đặc trưng riêng. Lai tạp trong ngôn ngữ văn chương đã tạo nên những hiện tượng lai tạp khá đặc biệt, tạo nên một nét riêng của ngôn ngữ lai tạp được hình thành trong quá trình sử dụng ngôn ngữ từ mục đích giao tiếp đến ý đồ nghệ thuật.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy, vào chế độ quân chủ ở Việt Nam, người Việt sử dụng cả hai hình thức ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói). Tiếng Việt qua các giai đoạn sau được ghi lại bằng hai hình thức đó là chữ Nôm (theo hệ chữ vuông) và chữ Quốc ngữ (theo hệ La-tinh). Khi sử dụng cả hai loại ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói) dẫu chẳng cần đến một Pidgins nào để "hiểu nhau" nhưng trong văn chương hiện tượng lai tạp này vẫn diễn ra và trở thành sản phẩm trí tuệ của thời đại này.

Sự lai tạp các yếu tố Hán và Nôm; Nôm và Hán trong những tác phẩm thi ca, câu đối một mặt là sản phẩm của xã hội có song thể ngữ, mặt khác lại là sản phẩm đặc biệt của những cá nhân sử dụng ngôn ngữ với những mục đích rõ ràng. Tuy những hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ văn chương ở giai đoạn này không nhằm mục đích để hình thành Pidgins, nghĩa là không dùng với mục đích giao tế, nhưng tính chất lai tạp thể hiện trong chúng là rất rõ nét với ý thức cụ thể. Hiện tượng lai tạp kiểu này đã trở thành một ý đồ nghệ thuật- nghệ thuật chơi chữ với những cách thức phô diễn trí tuệ qua chữ nghĩa cũng như hướng đến những đích thẩm mỹ nhất định.

Vào thời Nguyễn (1802-1945), ở Huế, có một bài thơ chữ Hán, trong đó, mỗi câu đều có hai chữ Nôm (vốn được truyền là của Chu thần Cao Bá Quát - đọc ghép theo hai câu thực của vua Tự Đức) như sau:

Phiên âm:

Bảo mã tây phong huếch hoác lai
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

Dịch thơ:

Huếch hoác gió phi tiếng ngựa lồng
Huênh hoang người tự bước vào trong
Giữa vườn oanh hót khề khà tiếng
Ngoài ruộng đào bung lấm tấm bông
Lộp bộp sương reo nghe xuân sớm
Bài nhài mưa rụng thấy thu không
Khù khờ tứ cũ thơ quen điệu
Khệnh khạng mai sau hỏi tú công.
                                (Hải Trung dịch)

Ở đây, có các yếu tố huếch hoác; huênh hoang; khề khà; tấm tấm; lộp bộp; bài nhài; khù khờ; khệnh khạng đều là chữ Nôm với nét nghĩa thuần Việt tồn tại đều đặn trong tám câu của một bài thơ chữ Hán thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đây là sự lai tạp cố ý với dụng ý nghệ thuật rõ nét, và tất nhiên phải giỏi chữ nghĩa mới có thể tạo lập được dạng văn bản kiểu này.

Đối lập với kiểu lai tạp Hán-Nôm vừa đề cập, hiện tượng lai tạp trong ngôn ngữ Nôm- Hán trong văn học trung đại khá phổ biến với những đặc điểm khá rõ nét là tiếng Việt có một lượng từ gốc Hán khá lớn. Không kể rất nhiều bài thơ có sự lai tạp, hay nói đúng hơn là sử dụng từ Hán Việt một cách tự nhiên theo những kết hợp thường gặp trong tổ chức ngôn ngữ, thì có một số bài sử dụng từ Hán Việt có những đặc trưng rất riêng, rất điển hình với những sắc thái nghĩa rất rõ nét. Có thể xem đây như là một trường hợp lai tạp ngôn ngữ, tuy không nhằm vào đích là tạo Pidgins:

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
                (Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)

Ở đây, không kể đến các yếu tố gốc Hán như tạo hoá, cuộc, hồn, thành, lâu đài, cảnh, thì toàn bộ các từ như hí trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường... được phân bố ở cuối các câu đã tạo nên những âm vang, sắc màu cổ kính, phảng phất về dĩ vãng rất phù hợp với tính chất hoài niệm về một Thăng Long thành. Tuy các bộ phận từ Hán Việt được xem như là những từ của tiếng Việt, vay mượn từ tiếng Hán và được phát âm theo cách của người Việt, nhưng quá trình sử dụng và trộn mã (ở đây chỉ xác định trộn mã với tư cách là kết hợp thông thường) của các loại phong cách ngôn ngữ là hoàn toàn khác nhau. Xu hướng của những thể loại thơ hoài cổ thường sử dụng từ Hán Việt với mật độ cao, nhưng kiểu Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan là hoàn toàn khác, không phải là sự trộn mã ngẫu nhiên, thuận theo dòng xúc cảm, mà là sự cố ý lai tạp ngôn ngữ được phân bố thành hai khu vực rất rõ trong một câu: dãy thuần Việt và dãy Hán Việt. Hay ở trường hợp Chiều hôm nhớ nhà, sự kết hợp đồng dạng kiểu này cũng diễn ra tương tự:

Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
                (Bà Huyện Thanh Quan)

Sắc thái biểu cảm đặc trưng của từ Hán Việt là mang sắc màu tĩnh tại, bất động gây ấn tượng nhoè về nghĩa, vang về âm, câu thơ trên không cho chúng ta một bức tranh cụ thể của một ông lão đánh cá, của chú bé chăn trâu trong bối cảnh một khu phố xa, một thôn làng hoang vắng...mà chỉ gợi lên những nét hoạ về các ý niệm ngư ông, mục tử với các tiểu cảnh của viễn phố, cô thôn đã tồn tại sẵn, chìm trong trong tiềm thức Đông phương...

Trong kho tàng văn chương Việt Nam, có rất nhiều câu thơ, câu đối thể hiện sự kết hợp lai tạp giữa các yếu tố Việt và Hán. Đó là những hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa khá thú vị. Trong bài Qua đèo ngang, Bà Huyện Thanh Quan đã viết:      

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(1)

Ở câu này, các yếu tố quốc, gia đồng nghĩa với nước, nhà. Ngoài ra, quốc quốc lại đồng âm với cuốc cuốc (tiếng kêu của con chim cuốc); gia gia đồng âm với da da (một cách gọi khác của chim đa đa). Hay ở câu: Da trắng vỗ bì bạch thì bì bạch ở đây vừa là từ tượng thanh (nếu chỉ xét là một từ thuần Việt) miêu tả bổ sung cho nét nghĩa của vỗ, đồng thời lại có nghĩa là da trắng (nếu xét là từ Hán Việt). Kéo theo câu này là hàng loạt các câu đối lại với tính chất như thế, như: Trời xanh màu thiên thanh, Giếng nhỏ bé tỉnh tinh, Nhà vàng ngồi đàng (đường) hoàng, Tay tơ sờ tí ti...Hay hai câu đối vừa Việt vừa Hán dưới đây có cách tổ chức các đơn vị ngôn ngữ khá rõ trong ý nghĩa lai tạp:     

Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp
Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê
(2)

Trong hai câu trên có bốn cặp từ thể hiện hiện tượng đồng nghĩa thuần Việt-Hán Việt: bươm bướm- hồ điệp; cành sen- liên chi; gà trống- hùng kê; thóc- cốc, bên cạnh đó là hiện tượng đa nghĩa ở các từ Hán- Việt: nếu là liên chi (
) nghĩa là liền cành, nếu là liên chi ( ) nghĩa là cành sen; nếu là cốc đế ( ) nghĩa là chim cốc, nếu là cốc đế ( ) nghĩa là già cỗi (3).

Nhìn chung, là sản phẩm của lịch sử, do trước đây, người Việt sử dụng cả hai hình thức ngôn ngữ tiếng Hán (khi viết) và tiếng Việt (khi nói) và sau này có sự ra đời của chữ Nôm, việc lai tạp các yếu tố khác mã trong ngôn ngữ trong cùng một văn bản nghệ thuật đã tạo nên hiện tượng lai tạp ngôn ngữ khá đặc sắc. Hơn nữa, do đặc điểm tiếng Việt vốn có hai loại từ cơ sở là thuần Việt và Hán Việt nên việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tế cũng như nghệ thuật có sự trộn mã một cách tự nhiên, không một chút khiên cưỡng, nếu vận dụng lựa chọn, kết hợp khéo léo sẽ tạo ra những hiệu quả thẩm mỹ cao. Đó là một quá trình lai tạp rất đặc biệt, trở thành sản phẩm trí tuệ của những giai đoạn lịch sử khác nhau.

Sự phát triển và tồn tại của Pidgins liên quan chặt chẽ với những diễn tiến xã hội, gắn liền với những môi trường, bối cảnh và mục đích giao tiếp. Ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đến khoảng những năm 1950 của thế kỷ XX, ngót nghét 80 năm, Pidgins Việt- Pháp đã tồn tại ở Việt Nam(4) cùng với chế độ thực dân. Tiếp theo là 20 năm Pidgins Việt -Anh ở miền Nam Việt Nam cùng với sự tồn tại của chế độ Mỹ Ngụy. Chính sự tồn tại của những hình thức Pidgins này cũng tạo cơ sở cho thể loại thơ ca dân gian phát triển với tính chất trào lộng, trở thành những nét đặc sắc trong mảng thơ ca trào phúng giai đoạn này. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của Pidgins Việt- Pháp, hàng loạt bài thơ trào phúng đã ra đời.

Đặc điểm của loại hình thi ca này là sử dụng cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp trong cùng mạch diễn đạt, cách đọc tiếng Pháp cũng không đúng với âm chuẩn, ép ngữ âm tiếng Pháp nhằm phù hợp với nguyên tắc hiệp vần của thể lục bát. Chẳng hạn:  

Sao toa vội gót trở Ăng-phoong
Bạc bẽo làm chi hỡi đi- đoòng
Chắp cánh bay cao lòng cá-nác
Dừng chân đứng lại phận cô-soong
Sụt sùi moa những nhìn la-pốt
Năn nỉ sừ ơi nỗi lạc-gioòng
Một tiếng ô-voa không kể xiết
Xa người xa cả cán ba-toong.
(5)

Đó không đơn thuần chỉ là lối chơi chữ mang màu sắc hình thức, bài thơ đã thể hiện lối lai tạp đặc trưng. Ngoài cách kết cấu nhịp nhàng, được phát triển từ cơ sở Pidgins Việt- Pháp, nội dung bài thơ mang nội dung xã hội sâu sắc: mỉa mai thói tật ở đời, thật sự có tác động thẩm mỹ đến người đọc; và hình thức vẫn đảm bảo được tính chất đối ngẫu của một bài Đường luật.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, sự phát triển của hiện tượng Pidgins Việt- Pháp đã trở nên mạnh mẽ trước nhu cầu giao tiếp của xã hội. Một bộ phận lao động trong xã hội đã sáng tạo ra một lối “tam thiên tự” mới vận dụng để học tiếng Pháp lúc bấy giờ.

Khi học tiếng Hán, trước đây đã có tam thiên tự với lối đọc có vần điệu nhịp nhàng như: thiên trời, địa đất, tử mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước... Đến giờ người ta cũng sáng tạo ra lối nói vần vè kiểu này, nhưng bằng thể lục bát, để học nhanh tiếng Pháp với đặc tính là dễ nhớ, lâu quên:Đit mười, oong một, xăng trăm/ Toa ba, huýt tám, xanh năm, min nghìn/ Vạn thời tiếng gọi đit-min... (6)

Đả kích vào những cô gái Việt Nam lấy người Tây, một hiện tượng bị lên án gay gắt vào thời bấy giờ, thơ trào phúng Pidgins Việt- Pháp có rất nhiều bài. Phổ biến vẫn là lối lai tạp ngôn ngữ sử dụng các lối kết hợp theo tập quán của ngữ pháp, của cách tổ chức ngôn ngữ thơ Việt Nam. Có thể kể ra hàng loạt bài hình thành theo lối này (lúc chia xa nhân vật trong bài thơ vẫn vọng tưởng không nguôi thương nhớ đến người xưa, thổn thức trong niềm đơn côi đến chán chường):

Dê-cờ-ri tình thơ uynh-lét
Để cho mình con-nét mông-cơ
Từ khi mình kit-tê-dơ
Bon-nơ cũng lắm, ma-lơ cũng nhiều
...(7)

Hay là:    

Moa kit-tê vu mạch-tớ-nằng
(...) Mặc ai cẩm-lách với a-măng
(8)

Theo quan điểm của David Crystal trong Bách khoa ngôn ngữ học thì trên thế giới có 100 Pidgins và Creoles. Trong đó, Việt Nam có hai Pidgins: một được xây dựng trên cơ sở tiếng Pháp, được dùng rộng rãi ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp, bây giờ không còn tồn tại nữa; một được xây dựng trên cơ sở tiếng Anh, được sử dụng ở Việt Nam giữa người dân bản địa với các nhân viên người Mỹ, hiện nay cũng không còn tồn tại nữa (9).

Rõ ràng những dẫn chứng qua các tác phẩm văn chương bình dân vừa đề cập là những minh chứng khá thuyết phục cho sự tồn tại của hình thức Pidgins Việt-Pháp. Việc sử dụng khá rộng rãi của hình thức Pidgins này đã làm hình thành nhiều hiện tượng ngôn ngữ thể hiện ở nhiều dạng phong cách ngôn ngữ khác nhau. Điều đặc biệt đó là sự tồn tại của Pidgins trong phong cách ngôn ngữ văn chương, một hiện tượng rất hiếm trong các loại ngôn ngữ khác trên thế giới.

Pidgins với tất cả những đặc trưng của nó thật sự đã trở thành một bộ phận ngôn ngữ mang những yếu tố xã hội rất cao. Sự tồn tại của nó gắn chặt với sự tồn tại của những bối cảnh xã hội, những như cầu bức bách trong quá trình giao tiếp.

Xuất hiện với tư cách là ngôn ngữ bình dân, là sản phẩm của một bộ phận giao tiếp trong xã hội nhưng lại được sử dụng trong ý nghĩa là phương tiện biểu đạt văn chương đã thể hiện rõ khả năng của Pidgins. Điều này cũng cho thấy quá trình tiếp xúc ngôn ngữ trong tiếng Việt. Từ sự kết hợp của các yếu tố thuần Việt (thông qua sự ghi lại của các hình vị Nôm) với các yếu tố tiếng Hán đến sự kết hợp của tiếng Việt (thông qua sự ghi lại của các hình vị la-tinh) với các yếu tố tiếng Pháp đều có thể cho phép chúng ta nghĩ rằng, với đặc trưng ngôn ngữ của mình, tiếng Việt có khả năng và xu hướng có thể kết hợp với các yếu tố lai tạp rất cao, đặc biệt trong nghệ thuật. Qua đó, cũng phần nào thấy được bức tranh xã hội của Việt Nam vào những giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt là tâm hồn của người Việt, trong phạm vi ngôn ngữ nào đều cũng để lại những sản phẩm văn chương thú vị, góp phần làm giàu kho tàng tiếng Việt.

H.T
(178/12-03)

-----------------------
(1) Có tài liệu ghi là con cuốc cuốc... cái da da (H.T).
Câu này dẫn theo PGs Hồ Lê, Ts Lê Trung Hoa, Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt (Thú chơi chữ), Nxb KHXH, Hà Nội, 2002, trang 142.
(2) Dẫn theo PGs Hồ Lê, Ts Lê Trung Hoa, như trên, trang 146.
(3) Liên chi hồ điệp: có thể hiểu theo các nghĩa: Bươm bướm (đậu) cành sen; cành sen, bươm bướm; liên tiếp nhau (nghĩa thoát). Cốc đế hùng kê: có thể hiểu theo các nghĩa: gà trống già cốc đế (khú đế); chim cốc, gà trống.
(4) Theo quan điểm của Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội-những vấn đề cơ bản, Nxb KHXH, 1999, trang 77.
(5) Ăng-phoong (en France): về Pháp; đi-đoòng (dis-donc): vậy, hãy nói đi; cá-nác (canard): con vịt; cô-soong (cochon): con lợn; la-pốt (la poche): cái túi, cái ví; lạc-gioòng (l'argent): tiền bạc; ô-voa (au revoir): tạm biệt; ba-toong (bâton): cây ba-toong.
(6) Đit (dix):10; oong (un):1; xăng (cent): 100; toa (trois): 3; huýt (huit):8; xanh (cinq):5; min (mille): nghìn; đit-min (dix-mille): một vạn.
(7) Dê-cờ-ri (J'écris): tôi viết; uynh-lét (une lettre): một bức thư; con-nét mông-cơ (connaitre mon coeur): hiểu lòng tôi; kit-tê-dơ (đáng lẽ phải là je te quitte): ý là chia tay; Bon-nơ (bonheur): hạnh phúc; ma-lơ (malheur): bất hạnh.
(8) Moa kit-tê vu mạch-tớ-nằng (Moi quitter vous maintenant): bây giờ tôi phải xa anh, đúng ngữ pháp và kết cấu tiếng Pháp là moi, je vous quitte; cẩm lách (camarade): bạn; a-măng (amant): người tình.
(9) Dẫn theo Nguyễn Văn Khang, sách đã dẫn, trang 76.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.