Một ngôi trường, một hiệu sách, một cách ứng xử

09:08 21/05/2012

HỮU THỈNH  

Đã có lần tôi nói, mỗi lần về Huế, luôn có cảm giác đi dưới bóng mát của các tên tuổi. Đó không phải là câu nói lấy lòng, mà thực sự là một cảm nhận văn hóa.

Nhà văn Hữu Thỉnh - Ảnh: tienphong.vn

Từng được chọn là thủ đô, Huế, đương nhiên trở thành “đất tụ”. Tụ khí, tụ tài năng, tụ lòng người. Xưa nay, trong thiên hạ, tài năng dồn về các trung tâm để thi thố, để tìm cơ hội trọng dụng, để nở hoa, là một dòng chảy thường thấy ở mọi quốc gia. Người ta có chính sách để khuyến khích việc đó. Ngoài sự tập hợp tài năng mang tính cơ học ấy, Huế, với ưu thế về bản sắc văn hóa có đủ thông minh và điều kiện để tạo ra các tài năng tại chỗ của mình. Hai tiến trình này cùng diễn ra trong một thời gian dài, đã tạo ra nguồn nguyên khí dồi dào, xứng đáng là một trong những nhân tố hàng đầu trong bảng xếp hạng của các giá trị Huế.

Từ việc cảm nhận về tài năng, bất chợt, tôi nghĩ đến các thiết chế văn hóa và những cống hiến vượt ngưỡng của nó trong sự bồi đắp tinh thần. Trong dòng cảm hứng này, Huế lần lượt hiện lên trong tôi với ba biểu trưng về văn hóa vật thể và phi vật thể xứng đáng là những bệ đỡ và sự bảo hiểm của tài năng. Đó là một ngôi trường, một hiệu sách, một cách ứng xử.

1. Một ngôi trường

Đó là trường Quốc Học Huế, một cơ sở giáo dục đã làm nên sự ghen tị về mặt danh tiếng. Được thành lập vào tháng tư năm Đồng Khánh thứ hai (5/1887), thoạt đầu trường chỉ mang dáng vẻ sơ sài của một dịch vụ hành chính công, với nhiệm vụ là đào tạo đội ngũ thông ngôn cho bộ máy cai trị của Pháp. Công việc lúc đầu do xã hội hóa hoàn toàn, Nhà nước chỉ thực sự ngó đến sau kết quả của các kỳ sát hạch cuối năm. Công việc trôi chảy cứ tăng dần theo sự có mặt ngày càng đông đảo và toàn diện của người Pháp ở Việt Nam, dẫn đến việc vua Thành Thái ra chỉ dụ thành lập trường với tên gọi Pháp tự Quốc Học trường, gọi tắt là Quốc Học. Nhiệm vụ của nó ngoài việc đào tạo học sinh theo các hệ từ dưới lên còn được mở rộng ra với việc bổ túc tiếng Pháp cho hệ thống quan lại của triều đình Huế. Từ đó về sau, trường Quốc Học vừa dạy chữ Pháp, vừa dạy chữ Hán, và qua toàn bộ hoạt động, nó thực chứng một quá trình giao lưu văn hóa Đông Tây đang diễn ra ngày càng sầm uất theo sự dàn dựng của lịch sử. Vấn đề đáng tìm hiểu ở đây là công việc dạy và học được vận hành như thế nào để chỉ trong vòng trên nửa thế kỷ (tính đến năm 1945 là 58 năm), Trường Quốc Học Huế đã đào tạo được cả một thế hệ học sinh với những tên tuổi làm rạng rỡ non sông đất nước, trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Đã có biết bao văn nghệ sĩ tài danh vỗ cánh từ mái trường này. Cái gì đã khiến những học sinh của ngôi trường danh tiếng này phát triển vượt ra ngoài mục đích đào tạo của thực dân? Những người được giáo dục để duy trì chế độ thực dân rốt cuộc đã tham gia vào cuộc lật đổ chế độ ấy. Đó là ngoại lệ của lịch sử hay là những mùa quả của tinh thần dân tộc luôn bám rễ rất sâu vào ngọn nguồn truyền thống?

Tôi nghĩ rằng, trong mọi bước đi, văn học phải luôn luôn ngả mũ cám ơn các nhà trường. Xét từ cái gốc của vấn đề, thật không có gì đáng lo ngại cho văn học ta hiện nay bằng sự suy giảm chất lượng dạy và học văn trong nhà trường. Một chiến lược phát triển văn học không thể tách rời chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo.

2. Một hiệu sách

Đó là hiệu sách Sông Hương do nhà văn Hải Triều tạo dựng. Tôi không được biết đó có phải là hiệu sách duy nhất ở Huế hồi đó hay không, nhưng qua hồi ký của nhiều nhà hoạt động chính trị, nhà văn, các bậc trí thức, thấy họ đều nói đến những kỷ niệm tốt đẹp về hiệu sách này. Trên thực tế đó vừa là địa chỉ văn hóa, vừa là địa chỉ của hoạt động cách mạng. Các nhà cách mạng đã khéo biến một hiệu sách thành nơi hoạt động hợp pháp, phục vụ các yêu cầu của cách mạng và văn hóa. Một tiến trình được bắt đầu bằng văn hóa sẽ tạo ra các năng lượng xã hội rộng lớn.

Thật không thể nào nói hết sức bồi đắp, những chấn động, và dưỡng khí sinh ra từ sách. Bây giờ thì sách đã được in ra quá nhiều. Chúng ta đã phải tốn bao nhiêu công sức để có sự tốt đẹp này. Ấy thế mà, sau mọi cố gắng, giờ đây chúng ta đang đứng trước một nghịch cảnh: số lượng sách in ra tỉ lệ nghịch với người đọc. Những con số thống kê về chỉ số phát hành sách văn học đã đến mức tồi tệ không thể chịu đựng được nữa. Đã bao nhiêu lần dư luận và các cơ quan có trách nhiệm lên tiếng về việc Nhà nước sớm có chính sách khẩn cấp cứu lấy thói quen đọc sách của nhân dân ta, nhưng tiếc thay cho đến nay chưa có quyết sách mang tính đột phá. Văn hóa đọc đang xuống dốc hết sức đáng lo ngại. Đã thế, vàng thau lại lẫn lộn. Những cuốn sách được quảng cáo ầm ĩ không phải lúc nào cũng vì lý do chất lượng.

Ở đây cũng cần nói lại cho phải lẽ. Nếu đọc nói chung thì người ta vẫn vào mạng Internet hàng ngày với số lượng tăng nhanh chóng. Nhưng văn hóa mạng không thể thay thế cho sách. Vấn đề là ở chỗ đó. Cứu lấy thói quen đọc sách là cứu lấy tâm hồn.

3. Một cách ứng xử

Trong tiểu thuyết lịch sử Tuy Lý Vương, nhà văn Trần Thanh Mại thuật lại câu chuyện như sau: Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương là hai bậc vương giả được học hành rất công phu, đều yêu thơ và trọng các thi nhân. Họ đã lập ra một Hội tao đàn có tên là Thi Xã. Thi Xã bao gồm các vị trong hoàng tộc, các quan lại vào hạng tai to mặt lớn nhất của triều đình Huế. Thi Xã thành lập được ít lâu thì tại triều đình xuất hiện một vị quan nhỏ mới từ Bắc vào. Nhà thơ lớn nhưng chức quan nhỏ đó là Cao Bá Quát. Chân ướt chân ráo đến kinh thành, ông quan họ Cao có phải cố tình không biết đến những uy quyền rùng rợn của vương triều hay chỉ là do máu nghề nghiệp, đã dám làm một bài thơ báng bổ Thi Xã, coi thơ của họ cũng có mùi khó chịu như mùi dưới các con thuyền buôn nước mắm từ Nghệ An vào: “Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An”. Chuyện đến tai các tao nhân mặc khách của Thi Xã. Họ gầm lên vì tức giận. Rất nhiều ý kiến đòi tâu lên Hoàng Thượng để hành tội thi sĩ họ Cao. Tuy Lý Vương, với vai trò người Chủ soái của Thi Xã đã dùng lời lẽ ôn tồn làm dịu cơn bão của các đồng nghiệp. Ông ba lần lặng lẽ thân chinh đến thăm và mời Cao Bá Quát tham gia thi đàn của cung đình. Trước cử chỉ chân thành, cầu thân và bặt thiệp của Tuy Lý Vương, thi sĩ họ Cao lúc đầu ngạc nhiên, nghi ngờ, rồi chuyển qua cảm phục và đã phải hạ bớt sự cao ngạo của mình xuống để miễn cưỡng nhận lời tham gia Thi Xã. Phải là những bậc hiền tài, những nhân cách cao thượng mới có thể có lối ứng xử tao nhã và thánh thiện đến như thế.

Nhà văn ngày nay được cuộc sống cung cấp cho biết bao phương tiện để tiếp nhận tri thức, để theo đuổi nghề nghiệp. Nhưng dù cho điều kiện có phong phú và hiện đại đến đâu cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng của một ngôi trường, một hiệu sách, một cách ứng xử. Suy rộng ra, những thiết chế vừa công phu, nghiêm cẩn vừa tinh tế ấy tạo ra không gian tinh thần của toàn xã hội, trở thành những điều kiện tối cần cho hoạt động sáng tạo.

Nhưng nhà văn không chỉ biết thừa hưởng những gì mà xã hội đem lại cho anh ta. Ngược lại, trong công việc sáng tạo, nhà văn ở vào vị trí đầu mối của những giao cảm tinh thần. Mỗi tác phẩm của anh ta đều có dáng dấp một ngôi trường, một hiệu sách, một lối ứng xử. Còn giá trị của nó đến đâu thì chỉ có nhà văn mới biết rõ hơn ai hết.

Phát triển trên một mảnh đất từng được chọn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, văn học, nghệ thuật Thừa Thiên Huế được kế thừa một di sản tinh thần vô cùng giàu có và đặc sắc. Nó đã từng tạo được những mẫu mực để cả nước noi theo, những hào quang để thiên hạ soi chiếu. Bao nhiêu năm đã là như vậy. Và cho đến bây giờ, người ta vẫn không chịu thay đổi thói quen đó. Người ta vẫn không muốn nghĩ về Huế khác. Vậy thì yêu cầu đỉnh cao với hai phẩm chất tinh hoa và bản sắc là yêu cầu có tính lịch sử và khách quan đặt ra cho sự phát triển văn học, nghệ thuật của Cố đô Huế. Và chỉ bằng cách đó Huế mới mãi mãi là Huế đúng như hình ảnh trong ký ức tinh thần của cả nước.

Hà Nội 27/3/2012
H.T
(SH279/5-12)










 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.