Một lần uống trà ở Quảng Châu

16:19 02/06/2008
Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.

Công viên Liên Hoa Sơn ở Quảng Châu

Thế là khi tới Trạm Giang chúng tôi về luôn Cảng Châu Loan, nơi một khách sạn sang trọng, giá 385 ND tệ (700 ngàn đồng VN) một ngày. Đắt, nhưng tôi ưng ý ngay vì thấy ở tầng trệt có một Trà Hoa viên. Cũng giống như các trà quán ở Bắc Hải vùng ven biển, có cả các món ăn phục vụ vào buổi sáng: bánh bao các loại, mỳ các loại cùng các loại thức ăn khác nấu nướng cầu kỳ và rất ngon. Món ăn ở đây đã góp phần làm nên thành ngữ "Ăn Quảng Châu, ở Tô Châu, mặc Hàng Châu, chết Liễu Châu (Sau này khi tôi đã ở Bắc Kinh và một số vùng phương Bắc Trung Quốc thấy câu nói ấy là có lý). Song đến tối mới là thời gian của trà. Ở nhà tôi không có thời gian, có người đã rủa tôi là không biết sống vì cái sự không có thời gian ấy, tôi bận suốt ngày, ngay cả lúc chẳng thiếu một thứ gì. Mặc dầu, tôi tự biết như thế nghĩa là tôi thiếu tất cả, tôi là kẻ bất hạnh không biết yêu cái cuộc sống đầy đủ mà tôi đã tạo ra. Nhưng lần này thì tôi bảo người bạn cùng đi rằng: Hãy tiêu xả láng cả thời gian nữa đấy.
Và chúng tôi đã tiêu ở trà quán này.
Trong quán là một không gian xanh, thảm xanh màu lá cây đậm, tường xanh nhạt có treo những bức họa gam xanh... Bước vào đây tôi như trốn được cái mầu đỏ tuyệt đối của thành phố, "Ở đấy cái gì cũng đỏ". Đỏ đèn lồng, đỏ cờ hoa, đỏ băng rôn, áp phích, đỏ sivec tơ măng, đỏ các bảng hiệu... Ngồi vào một chiếc bàn nhỏ chân cao trước con mắt ngạc nhiên của các tiếp viên nữ mặc đồ Thượng Hải, chúng tôi tỏ ý rằng cuộc đời cũng đẹp dù chỉ là hai người phụ nữ. Họ ngạc nhiên vì phụ nữ ít đến những quán đắt tiền như thế này, và nhất là không có đàn ông cùng đi. Trên giá kê sát tường có những lọ thủy tinh to để khoảng 20 loại trà, hầu hết là trà búp còn nguyên cả lá (dài hơn búp trà San tuyết VN) đã sấy khô, ép lại thành từng bó. Thiếu nữ mời trà đến bên bàn giới thiệu với chúng tôi: Trà Long Tỉnh, Triều Châu, Tây Tạng, Phúc Kiến, Đài Bắc, Đài Loan, Hàn Quốc... (có loại giá đề 800 ND tệ/1kg) khi thấy chúng tôi vẫn chưa gật đầu món nào thì nói thêm: Đây là trà chữa mất ngủ, đây là trà chữa ung thư, còn đây là trà được trồng trên những đỉnh núi vùng Tây Tạng, núi cao nên người không đến mà sai khỉ hái đem về... Tôi đồng ý uống loại do khỉ hái. Bạn tôi bảo: "Mày điên à?". Tôi bảo "Mình cũng nói dối ti tỷ lần trong đời chứ bộ, cũng để cho người đời nói dối với chư". Bạn tôi cho rằng tôi bị lừa, còn tôi thì không thể không ứng xử như thế khi mà quán cho đến lúc đó vẫn chưa nhiều khách. Tôi biết, kinh doanh kiểu này chủ quán rất dễ phá sản. Sang trọng mà không gặp khách trọng sang. Hơn nữa đúng lúc ấy có một cô gái dáng vẻ gợi lên hai từ kỹ nữ với vẻ mặt buồn từ bên trong bước ra chào thực khách rồi ngồi xuống bên cạnh chiếc đàn thập lục, bên cạnh cô còn có một chiếc tỳ bà nữa.
Bạn tôi bảo "Có khi vì cái vẻ uống trà khỉ của mày mới có tiết mục này đấy". Tôi bảo "Mình cũng thử làm từ thiện một lần xem có được cái cảm giác lừa đảo không". Người kỹ nữ chơi một bài. Ngón đàn điêu luyện. Tôi bảo bạn tôi: "Đến đưa cho cô ấy cái này và nói chúng mình muốn nghe cô chơi bài tỳ bà hành bằng cái đàn tỳ bà kia". Tôi rút tờ 100 ND tệ.
Và thời gian trôi trong điệu Tỳ bà với lời ca bằng tiếng Quảng Đông gì đó – thứ tiếng tôi không hiểu, nhưng cái nức nở thì tôi hiểu như mọi con người ở thế gian và tiếng nức nở ấy làm ký ức sống lại... Hôm ấy – một ngày tháng ba sau mưa xuân những búp bàng nẩy lên như ngọn nến xanh trên những cành nâu khúc khuỷu, tôi nhớ một người nhưng biết người ấy lại nhớ một người khác nên đã buồn đi nghe nhạc Lê Thương: "Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt da sương. Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo...". Tiếng đàn hát của cô gái nếu không phải ở đây, một nơi xa những cây bàng búp lên như ngọn nến xanh hàng vạn dặm thì tôi không đủ can đảm để thực hiện quyền bình đẳng của mình mà nghe, mà nghĩ và thương cảm cuộc đời, thương cảm chính mình. Tôi nhớ đến Cô Diệu Linh trong phim "Vĩnh biệt Ái Cơ" (do Củng Lợi đóng) – người phụ nữ bước từ Tửu Hoa Lâu ra thành vợ nghệ sĩ tài danh song trí thông minh của cô ấy đáng để thiện hạ bái phục – mà thấy đời là những chuỗi bất ngờ...
Chúng tôi nghe hát và uống trà. Trà khỉ hái ở tận Tây Tạng có thực ngon hay không không còn quan trọng nữa, chỉ biết cái hôm ấy "ngon" quá, không thể quên được thế là đủ lắm rồi. Cuộc đời sợ nhất là không có gì được neo vào trong ký ức và nỗi chán chường khiến lòng ta trống không.
Chúng tôi uống cạn ấm này người ta lại rót thêm nước sôi vào để uống ấm khác, bao nhiêu lần rót đều chỉ một lần tiền ấy mà thôi (150 ND tệ). Gương mặt cái người – không – nhớ – tôi cứ hiện ra trong tôi, tôi vừa mong cho người ấy được vui vừa mong cho người ấy bất hạnh. Tôi cho rằng chỉ có bất hạnh thì người ta mới có điều kiện sống lại với ký ức. Nhưng chính tôi lại tự mâu thuẫn vì lúc này đây trà ngon như thế này mà ký ức lại ùa về sống động trong tôi.
Đêm đã về ở ngoài cửa kính, dòng xe và người trên đại lộ màu đỏ đã hết chỉ còn thi thoảng một vài ôtô vút qua. Tiếng kỹ nữ vẫn da diết "Gió theo trăng từ biển thổi qua non, buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn...". Người bạn ngồi bên giục "Thôi về đi, nếu mày có ngồi nó còn hát đấy. Ánh mắt của mày tri âm lắm... Mai có còn muốn đi xem thư pháp không. ...".
Thư pháp thì tôi cũng mê lắm, nhưng có về thì bởi là để cô kỹ nữ được nghỉ chứ không phải để tôi đỡ mệt. Chúng tôi đành đứng lên.

Về đến phòng tôi nhìn thấy cái túi du lịch đựng 10 kilôgam trà Thái Nguyên của chúng tôi, là số quà đem biếu những người bạn Trung Quốc, đã vơi một nửa. Số còn lại sẽ theo chúng tôi đến Bắc Kinh, ở đó có những người viết thư bảo chúng tôi sang chỉ nên mang theo trà Thái Nguyên làm quà là tốt nhất. Những người đó khi gặp đều nói nhớ trà Thái Nguyên Việt đến nỗi nếu uống hết số chúng tôi biếu thì họ lại sang Việt nam để đem về.
 
                12/2/2001

TRẦN THỊ TRƯỜNG
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.