Một đời thơ Phùng Quán

09:54 19/03/2008
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

MỘT ĐỜI LAO LỰC - MỘT ĐỜI CÙNG CỰC -MỘT ĐỜI THƠ PHÙNG QUÁN - TÌNH YÊU -CHIẾN ĐẤU - VÀ SỰ VĨNH HẰNG
Bắt đầu từ tình yêu quê hương nung nấu tâm hồn nhà thơ để đến với tình yêu em :
... Sáng chủ nhật. Hoàng đế mặt trời khoác long bào chói lọi hào quang, từ Tử Cấm Thành - biển Thuận An, xa giá lên vòm trời cổ tích Cố Đô. Ban nhạc cung đình chim sáo, chim cà cưỡng, chim sẻ, chim sâu... khắp các lùm cây trong thành phố ríu ran tấu nhạc. Con sông Hương tắm vàng nấu chảy...
                Sông Hương ơi !
                Gió thổi chi nhiều rứa ?
                Sóng vỗ làm chi rối ruột cả hai bờ
                Tôi ngồi... đá mọc thành thơ
                Ngóng về cửa Thuận... tôi chờ đò lên...
                Một đò lên...
                Hai đò lên...
                Ba đò lên...
                Mà tôi chẳng thấy bóng em trong đò...
                Bến sông đá tạc thành thơ
                Đá thơ ngơ ngẩn ngẩn ngơ đợi đò
                Một đò lên...
                Hai đò lên...
                Ba đò lên...
                                (chương 8 Đợi đò)
Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc
Tôi thấy mình đương đứng quá cheo leo...
                                (chương 10 Trái bí xanh)
Đối với Phùng Quán khi đã yêu hết mình anh trở thành "tội nghiệp" cái tội nghiệp đáng tôn vinh :
                ... Tôi biết
                em đâu phải Hằng Nga ngủ trong rừng?
                em có con phải nuôi
                có chồng phải bỏ
                em phải biết giá rau ngoài chợ...
                nhưng tôi vẫn quỳ xuống xin em
                ngay cả những phút nổi khùng
                em cũng đừng nói những lời chua chát
                em cũng đừng nói những lời cay độc...
Rồi như để biện minh cho mình nhà thơ tự an ủi :
               ... tôi chỉ biết với riêng tôi
                em là mái nhà
                giữa đồng hoang, trên sa mạc
                cho tôi ẩn trốn những trận mưa xấu xa 
                                                                                dung tục
                những trận mưa làm thối mục cuộc đời
                những trận mưa ngày càng nặng hạt !...
Cũng có đôi lúc gã si-tình-bi-tráng-Phùng-Quán ấy vẫn mơ một giấc mơ hoang tưởng :
                Trái tim tôi như trái cây bị dập nát
                rụng xuống từ cành cao
                tình tuyệt vọng là ngọn sào
                chọc cho trái cây rụng xuống...

                trái cây rụng vẫn mơ giấc mơ hoang tưởng
                may ra được gót chân em dẫm nát
                để trước khi tan vào bụi đất
                còn được hôn gót chân yêu...
Yêu như kiểu của nhà thơ Phùng Quán thì chúng ta xin bái phục. Không biết các thế hệ mai sau có yêu như thế không?
                ... quá đau khổ tôi trở thành lì lợm
                tôi xin em bớt giận...
                nếu không được ngồi
                thì tôi xin đứng
                cùng với cây chổi em dựng ở xó nhà
                nếu không được thở...
                tôi sẽ xin nín thở
                như cái ngày còn đi chăn trâu cắt cỏ
                tôi xuýt chết dưới đáy giếng làng
                vì mải lặn mò con cá bống thần
                                                cô Tấm bỏ quên...
                Và khi Phùng Quán bị người yêu ruồng bỏ xua đuổi ta lại càng thấy yêu thêm Phùng Quán, bỗng nhiên cái mất lại hóa ra được. Cái tình yêu đơn phương lại hữu hiệu trong biểu trạng tính cách nhân vật. Cái tình yêu lì lợm ấy chỉ có trong bản thể của Phùng Quán mà thôi :
                ...em giận dữ la lên :
                - đứng trong xó nhà cũng không được đứng !
                ... thì tôi ra đứng trước hiên...
                - đứng trước hiên cũng không được đứng !
                ... thì tôi xin ra đứng ngoài ngõ...
                - đứng ngoài ngõ cũng không được đứng !
                ... thì tôi xin ra đứng đầu đàng
                Tôi nhìn vào khung cửa nhà em
                môi rát bỏng những lời yêu thương...
Và cuộc đối thoại của tình yêu đến hồi quyết liệt ta tưởng chừng tan vỡ :
                - đứng đầu đường cũng không được đứng
                lời yêu thương cũng không được nói !
                ... thì tôi xin chết...
Tim ta như muốn ngừng đập và tưởng chừng như anh chàng thương binh đã từng là lính trinh sát của trung đoàn đã chọn nhầm đối tượng nên bị nhồi máu cơ tim có thể ngất đi, nhưng không ta lại nghe nhà thơ trỗi dậy nói :

 

 

                Nhưng tôi không nói lời vĩnh biệt
               vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh............
Và như để khóa lại lời cam kết của mình nhà thơ thốt lên :
                dù hỏa táng
                dù chôn xuống chín tầng đất
                trái tim dập nát của tôi vẫn thắm một khối tình !
Chưa hết, nhà thơ còn chưa để cho mối tình tan biến đi trong không gian và thời gian :
                nếu dại dột
                một sớm mai nào đó
                em bỗng bay mất
                tôi sẽ tan vào mưa Huế những ngày đông
                xối xả xuống tất cả những nơi nào em đã đặt chân !
Khi tình yêu đã mất nhà thơ chỉ biết lấy chén rượu để giải sầu và vắt kiệt sức lao động của mình để bù vào chén cơm manh áo. Nhà thơ đã viết ... cạn kiệt thơ giữa cuộc sống thị thành, tôi quyết định rời bỏ gia đình bạn hữu giữa cái tuổi ngoài 50, lên rừng tìm đào bới mạch thơ giữa thiên nhiên.
Tôi đã sống một mình suốt ba năm (6-1981 đến 8-1984) trong cái lán lợp tranh lá mía, giữa một bãi đất phù sa cổ hoang vu vùng đồi núi Thái Nguyên. Quanh ngôi lán mọc lút đầu cỏ dại và cây trinh nữ xanh.Trước mặt lán là con suối Linh Nham. Mùa mưa lũ, nước đỏ ngầu phù sa cuốn theo củi rều lá mục, cây rừng trốc gốc, xác súc vật chết... cuồn cuộn dâng cao... Trong ba năm tôi đã ăn thịt được ba chục con hổ mang chì, giết chết vài chục con rắn lục, săn bắt vài chục con móc xiết - một loài chồn răng sắc như gươm sinh sống bằng thịt rắn - đốt phá hơn chục tổ ong lỗ...
Tôi sống cùng với một con chó, một con heo, một bầy gà cùng sắn bắp rau lang ốc suối và tôm cá tự đánh bắt lấy.
Trong ba năm chỉ có hai người bạn cũ từ Hà Nội lên thăm. Một giáo sư sử học và một nhà thơ.
Gặp lúc ốm đau, tôi tự chữa bệnh với lá xông, rượu tự cất lấy bằng sắn và men lá, và tia cực tím của mặt trời.
                Tôi phải lên rừng
                Hái lá khổ sâm
                tự mình cất lấy ly rượu sống...

               Ơi rượu khổ sâm đắng lắm !
                đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...

                bạn hữu thân thiết ơi !

 

 

                xin đừng trách cứ tôi
                sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
                chỉ vì
                tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
                vừa cạn chén rượu đời
                cất bằng lá khổ sâm...
Nhưng rồi lá khổ sâm cũng không còn nữa, những con cá con cua cũng rời bỏ nhà thơ, những con rắn con cheo trong rừng cũng lẫn tránh nhà thơ... Sức tàn lực kiệt gót nhọc lòng đau, nhà thơ đành tìm về với mẹ - đó là đất Cố đô. Sông Hương mở lòng ra đón đứa con lưu lạc trở về :
                ... nhưng cuối cùng quê hương đã nhận ra
                trái-tim-thơ-trong-sạch
                và gương mặt Thơ-bi-thiết -của tôi...
Đó là câu thơ đầu tiên khi gặp lại Huế tôi nức nở thành lời.
Văn hữu và thi hữu quê nội hay tin tôi trở về đã quây quần săn sóc, đùm bọc chiêu đãi tôi.
Văn hữu thi hữu quê tôi nghèo lắm, có lẽ nghèo nhất đất nước. Thế mà vẫn chiêu đãi tôi theo cung cách các vương hầu thời chiến quốc chiêu đãi bạn. Ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn.
Rượu như lửa tôi uống tràn thay nước. Tôi van các bạn rượu thì đắt mà các bạn thì nghèo, đừng cho tôi uống nữa!
                Các bạn gạt đi...
                Đất Cố đô bao giờ chịu mang tiếng
                Để một nhà thơ phải đói rượu giữa quê hương !
                Tôi ngất ngưởng sống, ngất ngưởng thơ, ngất ngưởng say.
                Và tôi ngất ngưởng gặp nàng...
Chết đi sống lại bâm dập bao lần thế mà mới hồi sức lại ngất ngưởng yêu. Yêu như thế thì đến trời cũng phải sợ. Người đọc cũng bật cười nhưng cười ra nước mắt.
Năm 1950 Phùng Quán là chiến sĩ trinh sát của trung đoàn. Trong một trận chống càn ở chiến trường Bắc Thừa Thiên, tiểu đội trinh sát bị giặc bao vây tiêu diệt, chỉ còn một mình Phùng Quán may mắn sống sót, chân bị thương.
Nửa đêm, từ giữa cánh đồng khô nẻ, anh bò vào làng tìm nước uống. Anh bị rơi xuống một con lạch sâu xâm xấp bùn. Anh vùi mặt vào bùn để dịu bớt cơn khát... Những câu thơ ập đến trong đầu, tưởng chừng như nó vọng lên từ lòng mẹ. Đất ru đứa con chiến sĩ vào giấc ngủ kiệt sức mất máu...    
                ...ai yêu đất bằng tất cả cuộc đời mình
                sẽ được nghe đất hát...
                Đất ơi !
                Con nguyền yêu người với tất cả máu xương
                với tất cả cuộc đời con mười bảy tuổi !
Trong trận công đồn diệt viện Phò Trạch Thừa Thiên, Phùng Quán đã viết quyết tâm thư bằng máu :
                nếu tôi chết
                xin các đồng chí đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                Hãy chôn tôi ngay chính nơi tôi đã ngã !
                dù đồng xanh hay giữa núi đồi
                dù bãi lầy trảng cát xương rồng gai
                hay ngay bên rệ đường tôi nằm phục kích
                mà không ngày nào đinh giày và xích xe tăng địch
                không xéo dày lên phần mộ của tôi
                dù thế đi nữa các đồng chí ơi !
                cũng đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                hãy chôn tôi nơi chính tôi đã ngã !

                để mát dạ những người đã khuất
                người ta trồng cây đẹp rủ bóng lên nghĩa trang
                nhưng quanh mộ tôi
                xin đừng trồng bạch đàn liễu biếc hay thủy dương
                hãy trồng cho tôi một nghìn mũi chông nhọn hoắt
                mỗi mũi chông đều nhớ tẩm thứ thuốc độc mạnh nhất

                viếng mộ tôi xin đừng đốt hương
                hãy đốt cho tôi ngọn lửa đốt đồn
                khắp cả quê hương đều ngó thấy
                soi sáng hết những nơi nào máu nhân dân đương chảy.

                Nếu phần mộ tôi là vị trí tốt để đánh mình
                xin các đồng chí đừng do dự gì tất cả
               Hãy đào mộ tôi lên
                quẳng hài cốt tôi đi !
                và thay vào đó cho tôi một trăm cân thuốc nổ !

                xin các đồng chí đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                hãy chôn tôi nới chính tôi đã ngã !
                                               (Di chúc chiến sĩ 1952)
Chừng đó thôi đã quá đủ để ta hiểu về con người Phùng Quán, chưa kể đến Vượt Côn Đảo, Chống tham ô lãng phí, Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Hôn, Lời mẹ dặn, Trường ca cây cà, Anh là ai và anh từ đâu đến, Tuổi thơ dữ dội...
                ... Tất cả những gì bạn nếm trải suốt cuộc đời
                tận cùng niềm vui
                tận cùng nỗi khổ
                với bạn cũng chỉ là chơi.
                khi không còn cách gì chơi mới nữa
                bạn chơi ung thư...
                bạn sẽ xuống địa ngục ?
                hay bạn lên thiên đường
                tôi chắc bạn đến cả hai nơi
                bạn chơi luôn cả thiên đường địa ngục !
                                                (thơ đọc trước linh cữu Trần Thịnh
                                                hiệu là  Thịnh Râu đạo diễn điện ảnh)
Bài thơ tặng cho bạn và cũng tặng cho mình, không lâu sau nhà thơ Phùng Quán cũng chơi cái trò chơi "tuyệt vời" đó. Khúc bi tráng nhà thơ còn dang dở anh đã ra đi giữa lúc tài năng đau chín.
                ... đã đi với nhân dân
                thì thơ không thể khác
                dân máu lệ khôn cùng
                thơ chết áo đắp mặt ! ...
                ... đừng buồn nữa em ơi
                chuyện ngàn năm... ngàn năm...
                                                (Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe)
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :
                trong trăm nghìn nỗi đói
                tôi nếm trải cả rồi
                tôi chỉ kinh khiếp nhất
                là nỗi đói tình người
                                (Đói, thơ Phùng Quán)
Nhà thơ Phùng Quán có viết tặng Hoàng Cầm bài thơ có tựa đề là : Viết tặng Hoàng Cầm thi sĩ trong giây phút anh ngã lòng suy sụp, trong bài thơ ấy có một đoạn :
                ... tôi có một niềm tin
                chắc như đinh đóng cột
                ngày mai anh nhắm mắt
                đi sau linh cữu anh
                có cả con sông Đuống ! ...
Để kết thúc bài tưởng niệm ngắn nầy tôi xin mượn ý bạn trong đoạn thơ trên nhưng xin phép chữa một câu :
                Tôi có một niềm tin
                chắc như đanh đóng cột
                ngày mai anh nhắm mắt
                đi sau linh cữu anh
                ngoài bạn hữu gia đình
                có cả thiên đường
                và địa ngục.
                                     16-12-1998
THU BỒN  
(nguồn: TCSH, 3.1999)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG THỊ THU THỦY1. “Ngày khai trường áo lụa gió thu bay” không chỉ có trong “Mối tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, mà niềm háo hức, tươi xanh, mong đợi có cả trong bài thơ “Mỗi ngày” của thầy giáo Hoàng Ngọc Quý.

  • TRẦN ĐÌNH SỬHoàng Ngọc Hiến là nhà giáo, nhà phê bình văn học, nhà triết luận văn hoá, nhà dịch thuật. Người ta đã biết nhiều về ông với tư cách nhà phê bình văn học mà ít biết về ông như nhà triết luận văn hoá. Về mặt này ông thể hiện một niềm trăn trở khôn nguôi đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại.

  • LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

  • PHẠM TẤN HẦUCó tập thơ chỉ là tập hợp những bài thơ. Nhưng Thi ca mùa ngái ngủ của Lê Huỳnh Lâm, dù là tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện một cái nhìn nhất quán về thế giới thi ca mình khám phá. Đó là thế giới được mở to trước những “cơn đau”, trước “nỗi kinh hoàng vây quanh trái đất”, “trong đền thờ quỷ ma” và trong ca “ngôi nhà không thần thánh”…

  • TRẦN VĂN SÁNG - NGUYỄN THỊ TỐ LOANKỷ niệm 100 năm Bác Hồ đi tìm đường cứu nước (1911 - 2011)

  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử

  • NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

  • TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)

  • PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.

  • Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?

  • ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

  • HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.

  • THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)

  • TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.

  • KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.

  • HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

  • MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.

  • KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”