Một đặc trưng của bài thơ 'Chợ tết' của Đoàn Văn Cừ: Trào tiếu dân gian

16:41 19/01/2023

LÊ THANH NGA

Châu Âu - một không gian văn hóa mà nền dân chủ phát triển trước nhất trong lịch sử nhân loại - ngay từ thời trung cổ đã là trung tâm của lễ hội Carnaval (tiếng Việt: lễ hội giả trang).

Ảnh: tư liệu

M.Bakhtin (1895 - 1975) đã nhận ra ở trong đó hàm chứa những đặc trưng cơ bản của văn hóa trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục Hưng: “Chính Carnaval, với toàn bộ hệ thống phức tạp và biểu tượng của nó, là biểu hiện đầy đủ và thuần túy nhất của văn hóa trào tiếu dân gian”1. Nhưng điều quan trọng là Bakhtin không chỉ đơn thuần nhìn thấy tinh thần này như một mã văn hóa riêng có của hiện tượng, mà tác giả còn gửi gắm vào thuật ngữ hàm ý chỉ một nguyên tắc thế giới quan, một đặc tính mang diện rộng của văn hóa và là một công cụ nghiên cứu thi pháp học văn hóa.

Theo quan niệm của Bakhtin, văn hóa trào tiếu dân gian chính là cội nguồn của văn hóa Carnaval - một nền văn hóa dường như đã trải qua rất nhiều thế kỷ chấp nhận thân phận ngoại biên mặc lòng nó chính là một bộ phận quan trọng cấu thành, khiêu khích, tạo những xung đột để/và thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài người. Bakhtin đã chỉ ra, trong cuốn Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục Hưng, rằng văn hóa thống trị của nhà nước thần quyền với văn hóa trào tiếu dân gian luôn là hai thế lực đối lập. Khi nghiên cứu các lễ hội dân gian để chỉ xuất phẩm chất trào tiếu của chúng, Bakhtin đã loại ra ngoài các lễ hội chính thống do chính quyền tổ chức, chỉ tập trung chủ yếu vào các lễ hội dân gian với các đặc trưng cơ bản là không khí vui vẻ tự do trong đó hàm chứa khát vọng “lộn trái” những gì thuộc về tính nghiêm túc nghi lễ mang tính chất hành chính chính thống. Ở đó, người ta giải phóng mình hoàn toàn khỏi những nguyên tắc, trật tự mang tính giáo điều… Phan Trọng Hoàng Linh đã khái quát tinh thần này trong ba điểm cơ bản: 1. Vào thời Trung cổ, phần lớn các thời gian trong năm, nền văn hóa trào tiếu dân gian luôn bị mặc định ở khu vực ngoại biên của đời sống văn hóa; 2. Thời điểm lễ hội (dân gian) là khoảng thời gian duy nhất trong năm văn hóa trào tiếu được chiếm vị trí trung tâm; 3. Thời gian lễ hội tạo ra một không gian sinh tồn khác, mà khi con người được bước vào, họ được giải phóng khỏi mọi quy phạm, chuẩn mực văn hóa thường ngày; do đó, lễ hội Carnaval là loại thời - không gian mang tính tự do, tính phi chính thống và tính phi lý tưởng/không tưởng2.

Đoàn Văn Cừ sinh ở một vùng nông thôn miền Bắc, trong một gia đình nông dân. Nghĩa là không gian xuất thân, sinh tồn ở cái thời hình thành nhân cách của nhà thơ chủ yếu thuộc phạm vi văn hóa ngoại biên ở một xứ sở mà nghìn năm trước đó, trung tâm là chỗ độc bá của nền tảng tư tưởng Nho giáo cùng bộ máy hành chính và hệ thống các quan niệm, lối ứng xử xuất phát từ tư tưởng ấy…. Nông thôn Việt Nam với tính độc lập cao hẳn nhiên vẫn có một không gian tồn tại riêng với những đặc trưng riêng, bởi về cơ bản nó không chịu đựng một cách triệt để sự câu thúc, chi phối của hệ tư tưởng chính thống, nhất là khi người ta thoát khỏi các quan hệ trong không gian đóng (kiểu quan hệ gia đình, họ hàng) để tồn tại trong một không gian mở (không gian vui chơi, không gian lao động). Không phải tự nhiên mà trong kho tàng sáng tác của nhân dân lao động, chiếm một phần rất lớn là các sáng tác về nghề, trong đó không ít tác phẩm mang phong vị trào tiếu duyên dáng. Đọc các tài liệu nghiên cứu văn hóa, chúng ta có thể thấy, dường như ở miền bắc Việt Nam, nơi tư tưởng Nho giáo với những quy phạm ứng xử chặt chẽ nhiều khi đến nghiệt ngã với thiên hướng luôn nặng nề về hành chính trong tính hà khắc chính trị, các lễ hội dân gian lại xuất hiện khá nhiều như là nỗ lực chống lại quyền lực của nhà nước.3 Ngoài các ghi chép văn hóa, cũng có thể thấy các lễ hội này được nhắc đến trong một số tác phẩm văn học gần đây (Con gái Thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh…).

Sinh ra trong không gian văn hóa nông thôn, với căn cốt nông dân, một cách tự nhiên, Đoàn Văn Cừ, trong thơ, thường thể hiện con người gắn với làng xã, như một cách thể hiện căn cốt, tình yêu và niềm hoài niệm những giá trị truyền thống trước nguy cơ chiến thắng của đô thị. Tất nhiên, đây không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là câu chuyện của cả một thế hệ. Hình ảnh nông thôn đẹp một cách u buồn từng xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính, Quách Tấn, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… Đành rằng mỗi nhà thơ, nhất là các nhà thơ lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945, có một phong cách riêng. Nhưng Đoàn Văn Cừ, trong số các tác giả viết “chuyên” hoặc không “chuyên” về nông thôn, là trường hợp khá đặc biệt. Nông thôn, làng quê xuất hiện trong thơ ông không chỉ có cái u buồn như một nét đặc trưng hồn cốt của người Việt, mà còn nhiều phần tươi vui bởi cái sinh động của sự sống nông thôn diễn ra hằng ngày, thân thiết và giản dị trên tinh thần cộng đồng làng xóm. Và bởi thế, hầu như ở bài thơ nào của ông viết về đề tài này ở giai đoạn 1932 - 1945 đều mang ít nhiều âm hưởng của lễ hội.

Với người Việt (xưa kia), tết là dịp nông nhàn. Ở đó có một quãng thời gian đủ để người ta đắm mình trong không khí vui tươi bởi muôn kiểu hội hè, ăn chơi sau một năm lao động cực nhọc. Câu “tháng giêng là tháng ăn chơi” hàm chứa một thông điệp về tính mùa của lễ hội. Cuộc sống hiện đại với sự cải tiến hạt giống và kỹ thuật canh tác, nhu cầu phát triển đã thu lại thời gian ăn chơi chỉ trong vài ngày tết, với ít hội hè, ít trò vui dân gian hơn, nhưng những ký ức về những cuộc ăn chơi truyền thống vẫn được bảo lưu trong những tài liệu, tác phẩm văn hóa, văn học dân gian và ký ức người già. Hai chữ “chợ tết” vì thế trước hết gợi lên một thời gian đậm màu sắc lễ hội. Mặt khác, hai chữ “chợ tết” xướng lên một tinh thần đối thoại giữa cái trang nghiêm và cái bỗ bã, cợt nhả. Nếu “tết” gợi một ý thành kính, thiêng liêng thì “chợ” lại gợi một ý mang hàm nghĩa giải thành kính, giải thiêng. Nếu tết là nơi để người ta sống trong những quy tắc, lề luật, nặng về phần lễ, thì chợ lại là nơi tự do mà chất tự do ấy thể hiện một cách đầy đủ nhất trong câu “thuận mua vừa bán”. (Ngoài ra, cần chú ý là trong con mắt dân gian, những gì thuộc về phần tự do, hỗn độn, vô lối thường được ví với “cái chợ”: lớp học ồn ào như cái chợ, ba người đàn bà với con vịt là thành chợ…). Ở đây chúng tôi muốn lưu ý thêm là dường như Đoàn Văn Cừ rất thích quan tâm đến không gian hội hè và phong tục nông thôn. Thơ ông tràn ngập những chi tiết, hình ảnh, sự kiện như thế này: chợ tết hội làng, đám hỏi đám tang, ngày mùa, năm mới, chợ làng mùa xuân…

Không gian chợ tết trong bài thơ của Đoàn Văn Cừ trước hết tạo ra một “địa bàn” sống khác cho con người. Ở đó người ta có những thời khắc thoát khỏi những ràng buộc luật tục như chúng tôi vừa kể trên, để được sống là mình trong cái hồn nhiên, tự nhiên đã bị tước đoạt trong những ngày thường của năm. Bởi thế mà gây ấn tượng trong bài thơ trước hết là kiểu không gian tươi vui với xu thế phổ biến những sắc màu gam nóng và mang đặc trưng của tết trong đó màu đỏ, vàng, nâu, là màu sắc chủ đạo với 17 lần xuất hiện (trong đó 12 lần màu đỏ, son, nâu) so với 5 lần của màu trắng và 4 lần của màu xanh (nếu tính cả hình ảnh “cỏ”, “lá” được nhắc đến). Gam màu nóng ấy không xuất hiện đơn độc mà cùng với nó là gam màu trầm, lạnh cũng xuất hiện tạo nên một thế giới hô ứng rộn rã cảm xúc thị giác. Điều này gợi lên thứ sắc màu rộn rã tự do của các hình ảnh hóa trang trong lễ hội mo nang của người Việt hoặc lễ hội Carnaval Âu châu.

Và trên thảm màu sắc rộn rã ấy là sự sinh hoạt của con người. Có cảm giác ở đây mọi người đều tất tả, nhưng trong sự tất tả ấy không hề gợi một ý niệm về sự vội vã của những ngày tất bật lo chuyện áo cơm và dè chừng các mối quan hệ, mà là niềm vội vã hoan lạc. Đấy là một thế giới vận động không ngừng với mỗi người một hành động theo chính nhu cầu, sở thích, mục đích của mình trong trạng thái chan hòa có phần mặc kệ, không phân biệt tuổi tác, giới tính, đẳng cấp. Và điều đáng nói là với mỗi hành động như thế, cái “tôi” của mỗi người đều được bộc lộ một cách chân thực: “Thằng cu áo đỏ” thì “chạy lon xon” đúng tâm lý trẻ thơ được ra chợ tết, “cụ đồ nho”, một cách điệu đà thường thấy, “dừng lại vuốt râu cằm” để “miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ”; “cô yếm thắm” “che môi cười lặng lẽ” - một kiểu làm duyên thôn nữ, mấy cô gái chắc là nghe hay nhìn thấy điều gì khiến nét yểu điệu thục nữ bay mất, “ôm nhau cười rũ rượi” “cạnh anh chàng bán pháo dưới gốc đa”… Không chỉ con người, tất cả các sự vật, hiện tượng xuất hiện trong tác phẩm đều trong tư thế vận động: “dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi”, “sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh”, “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa”, “tia nắng tía nháy hoài trên ruộng lúa”, “Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh”…

Trong thế giới vui nhộn này, Đoàn Văn Cừ, bằng cảm hứng trào tiếu, đã mở ra một kênh giao tiếp khác với người đọc, đó là sự giao tiếp trên phạm trù cái hài. Rất sinh động, rất chân thật bằng cái nhìn của một thi sĩ xuất thân làng xã, tác giả đã nhìn thấy trong hình ảnh những người bán lợn tính chất lễ hội, như một cuộc đua, vội vã mà tươi vui, và phía sau là “người bạn” đang như chạy tiếp sức cho họ, trong cái xôn xao của không khí chung:

Họ vui vẻ kéo đoàn trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau

Cảm hứng trào tiếu ấy được tiếp tục trong những miêu tả ngộ nghĩnh về thế giới, kiểu “lột truồng” bản chất của sự vật và con người. Nếu hành động “che môi cười lặng lẽ” của cô yếm thắm là một hành động giả trang, thì cái “cười rũ rượi” của mấy cô gái cạnh anh chàng bán pháo dưới gốc đa chính là một cú “lộn trái” để “bóc trần” bản chất; hoặc việc một người mua “cầm cẳng” “dốc” con gà lên xem cũng là một cái nhìn thẳng vào cái thô, có phần thô bạo của những người dân nông thôn miền Bắc. Cùng với đó, sự liên tưởng cái mào thâm của con gà trống với cục tiết là một kiểu so sánh thành thực đến quê mùa.

Sẽ dễ dàng nhận ra hơn cảm hứng trào tiếu trong bài thơ nếu đặt các biểu hiện không gian trong các mối liên hệ để nhận ra, tính chất vận động của thế giới chợ tết được nhấn mạnh một phần do sự đối lập các thành phần trong thế giới ấy. Đó là đối lập giữa cái cung đình và cái bình dân, cái nghiêm trang với cái hài hước, cái duyên dáng và cái kém duyên: Cô yếm thắm e lệ, duyên dáng, người già nghiêm nghị với hai người thôn “gánh lợn chạy đi đầu”, với con bò vàng ngộ nghĩnh, cụ đồ nho vuốt râu cằm, đọc câu đối đỏ với mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi… Trong đó có những hình ảnh đối lập thật sự sinh động:

Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ
Để lắng nghe người khách nói bô bô

Trâu là một “nhân vật” khá quan trọng đối với nền kinh tế lúa nước, nhiều khi là nhân vật trung tâm, tham gia vào chuỗi phân công lao động: “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, nhưng trâu cũng là nhân vật hài hước: đàn gảy tai trâu, cười như trâu, trâu cười đến gãy cả hàm răng khi trâu cười trong Trí khôn tao đây… Nói bô bô là một biểu hiện khá vô duyên, đây chắc là một vị khách đang phe hàng. Bô bô là kiểu nói liến thoắng, nói lấy được, không cần quan tâm đến thái độ người nghe và thậm chí người nói nhiều khi không cần quan tâm đến nội dung phát ngôn. Hình ảnh nhân hóa con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ để lắng nghe người khách nói bô bô hàm một ý vị bỡn cợt thâm thúy. Và, nếu nói trào tiếu dân gian có thể “lộn trái” những gì thuộc về tính nghiêm túc nghi lễ mang tính chất hành chính chính thống thì hình ảnh sau đây chính là sự “lộn trái” ấy:

Áo cụ lý bị người chen sấn kéo
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra

Chuyện cũ kể rằng trong một trại gồm có các phạm nhân đi đày ở Côn Luân, một tên cai chỉ vào từng người với một câu hỏi: “trước kia mày làm gì?” Một sĩ phu đáp: “Tiến sĩ”. Tên cai: “Tiến sĩ thì một roi này”, và hắn quất một roi. Người tiếp theo là lý trưởng, ngay lập tức tên cai thụp xuống: “Lạy ông Lý ạ”. Thêm nữa, với hình ảnh được miêu tả trong văn chương, các “ông lý”, “cụ lý” thực sự là một thứ quyền lực. Tuy nhiên, ở trong cái chợ tết này, với sự “sấn kéo” của người đi chợ, cụ lý bỗng trở nên nhếch nhác, hài hước và có phần lố bịch.

Có thể thấy, đọc Chợ tết, thoạt tiên, người ta có thể bị mê dẫn bởi không khí lễ hội trữ tình tươi vui với một thế giới sắc màu biết nhảy múa. Và người ta có thể thấy, bên cạnh cái nhìn tươi vui, chủ thể trữ tình còn mang một chút tâm trạng u buồn, và có thể là một chút bâng khuâng khi dự cảm được những nét tươi vui ấy sẽ mai một trong một tương lai nào đó, khi nền văn minh phương Tây đang xâm chiếm và lấn át dần không gian văn hóa Việt, với hình ảnh khép lại bài thơ: “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”. Tuy nhiên, cùng với chất trữ tình tươi vui với nỗi bâng khuâng buồn ấy, không thể không nhìn thấy trào tiếu dân gian chính là một cảm hứng quan trọng làm nên một nét đặc trưng của bài thơ.

L.T.N
(TCSH408/02-2023)

--------------------------
1 Bakhtin.M (2006), Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục Hưng. (Từ Thị Loan dịch). Hà Nội: Khoa học xã hội, tr.138.
2 Phan Trọng Hoàng Linh (2018), “Nguyên lí carnaval trong thi pháp học của Mikhail Bakhtin”, Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
3 Trong các lễ hội này, có kiểu lễ hội mang đậm đặc điểm của không gian luyến ái, ái dục tự do (như Hội Lim ở Bắc Ninh, nhất là lễ hội linh tinh tình phộc ở Phú Thọ…).

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.