THÁI KIM LAN
"Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du“
Bức ảnh thuộc bộ hình "Bạch Yến vào Xuân" của tác giả Võ Nam Sơn
![]() |
Chuyện áo dài cũng như câu chuyện ngày xưa ấy, có bóng dáng người con gái áo trắng bước ra từ khu vườn dậy hương khuya, hay trong nắng Sài Gòn gay gắt anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông… Câu chuyện mang tính phù du như mây trên trời, và thời trang dưới đất, mỗi ngày một đổi thay… Ấy thế mà trong cõi vô thường nhất của mây trôi, của áo mặc thì ÁO vẫn LÀ. Áo dài ấy vẫn LÀ. Bởi cùng với sự hiện hữu của con người, ÁO DÀI hiện hữu.
Bởi trong chữ xưa của câu chuyện áo lại có một chữ TÌNH, chưa hẳn là yêu mà là thương, cho nên Trịnh Công Sơn đã ví „tình yêu như thương áo, quen hơi ngọt ngào“. Áo và người quấn quýt với nhau, đến nỗi áo thay người mà nhắc nhở con người, nếu không thì sao lại „xếp tàn y lại để dành hơi“ như ông vua Tự Đức nhớ hoàng phi? Và sự nhớ nhung của nhân vật đời thường trong tiểu thuyết của Nhất Linh lại chính nằm trong hơi áo…
Và lịch sử của câu chuyện áo, của thời trang gắn bó với lịch sử của con người nói chung , câu chuyện áo dài của phụ nữ Việt nói riêng, bởi một thời nó đã là quốc phục trên mảnh đất hình chữ S này. Nói riêng hơn nữa đó là câu chuyện của mỗi người phụ nữ Việt Nam, về cội nguồn bản sắc văn hóa. Và đó cũng là câu chuyện của mỗi ai là phụ nữ Việt, và của tôi. Chiếc áo cũng như đất nước, con người, thăng trầm dâu bể theo với đổi thay…
Chiếc áo đầu tiên được mặc từ năm lên 10, vào dịp Tết, đã là niềm mơ ước đầu đời để trở thành… người lớn. Chiếc áo mới có hai vạt dài, cổ cao, nút thắt bên cánh tay mặt, chiếc quần trắng ấy được mẹ dịu dàng ý tứ mặc lên mình người con… Với cái vuốt tay trên áo cho thẳng thớm trên thân hình nhỏ bé, Mẹ và áo như đã nắn nót vóc dáng ngây thơ tự nhiên thành vóc dáng con gái, vóc dáng con người. Từ đó tà áo đã theo tôi trong những thập niên 50, suốt cả thời thiếu nữ, gắn bó keo sơn. Nó là niềm hãnh diện của thuở học trò áo trắng khi nó mượt mà chân chất với chất liệu vải quyến dung dị làm nên bộ đồng phục áo trắng quần trắng của nữ sinh trường Trung học Đồng Khánh Huế.
Trong dòng áo dài truyền thống như quốc phục của phụ nữ Việt Nam thời ấy, trong chiếc áo nữ sinh nền nã, tự tình bản sắc văn hóa phát sinh, tự tình ấy chảy theo với quê hương, với con người tự nhiên như mặt trời buổi sáng và trăng sao buổi chiều. Trong chiếc áo dài, cung cách đi đứng, ứng xử trong đời sống thường ngày, phong cách sống của người phụ nữ Việt Nam được uốn nắn phần nào. Chả là bà tôi, mẹ tôi, tất cả mọi phụ nữ Việt Nam của thế hệ trước vẫn mặc áo dài suốt ngày trong khi làm công việc nội trợ, quán xuyến trong ngoài cho gia nương đấy sao? Tà áo dài gắn bó với nếp gia phong của mỗi gia đình, của làng xóm, thành thị, thôn quê. Dáng dấp của Bà, của Mẹ, phong thái ung dung tự tại trong chiếc áo dài là tấm gương để con cháu noi theo, để láng giềng học theo. Dù sang giàu hay nghèo nàn, chiếc áo dài Việt Nam như có ảo thuật bí nhiệm có thể che đi khuyết điểm, nhấn mạnh ưu điểm của thể hình đàn bà, phô diễn được vẻ đẹp chưa khám phá hết của riêng mỗi người, làm cho người phụ nữ nào cũng trở nên đẹp, dù sang hay nghèo, dù khiếm khuyết hay toàn hảo ngoại hình sẵn có, bất ngờ mọi phụ nữ hầu như đều đẹp trong chiếc áo dài. Đẹp như nhau mà vẫn riêng biệt đặc sắc từng người, đó là phép lạ của chiếc áo dài, của tấm áo hai tà thướt tha như mây cuốn từ khi nó được sáng tạo (thời Nguyễn) cho đến ngày nay.
(Tác giả ảnh: Võ Nam Sơn)
Năm 1965, khi tôi sang Đức du học, "gia tài" tôi mang theo là sáu bộ áo dài bằng lụa nội hóa. Ngày khai giảng đầu tiên, tôi cùng bốn nữ giáo viên khác cùng du học đến trình diện ở trường. Chúng tôi không ai hẹn mà cùng mặc áo dài. Những đồng nghiệp ngoại quốc dự khai giảng ngỡ ngàng khi thấy trang phục của chúng tôi. Họ trầm trồ trước vẻ uyển chuyển thướt tha và ngợi khen đây là một trang phục rất lạ, đẹp, lịch sự và thích hợp với dáng dấp mảnh khảnh của phụ nữ Á Đông. Trong khung cảnh lạ ở xứ người, giữa rừng người ăn mặc theo mốt Tây phương sang trọng kiêu sa, mặc chiếc áo dài, tôi có cảm giác mình tự tin và vững chãi, và không nói phô trương, còn vượt xa họ về vẻ lịch sự, trang nhã. Hơn một lần, tôi nhận thấy chiếc áo dài thân thiết như chính quê hương. So với những lúc ăn vận trang phục Tây phương ngượng nghịu, phụ nữ Việt dù mốt đến đâu cũng không thể đẹp như trong chiếc áo dài, bởi vì nó phù hợp với cử chỉ, dáng dấp, thể hình phụ nữ Việt, nó làm nổi bật ngoài vẻ duyên dáng đặc biệt chỉ có ở phụ nữ Việt. Tôi còn nhớ, dạo ấy, khi nhìn sang những người bạn gái đồng hành trong chiếc áo dài lịch sự và trang trọng, tôi càng ý thức điều đó nhiều hơn, và vui làm sao khi mọi cặp mắt đều chú ý đến họ như những bông hoa hiếm đẹp giữa trăm nghìn người xa lạ.
Chính trong thời gian ở nước ngoài, áo dài dù không còn được mặc thường xuyên, dù đã thay đổi cách ăn mặc để thích nghi với đời sống thường nhật, áo dài vẫn LÀ chiếc áo đến từ trái tim thuần chất, gần gũi và quen hơi hơn tất cả những Âu phục hàng hiệu nổi tiếng trên thế giới trong tủ áo của mình. Những khi cần giao tiếp, tổ chức tiệc tùng, tiếp tân khách quý ngoại quốc trong những buổi lễ quan trọng, đứng trước tủ áo để lựa chọn chiếc áo cho mình thích hợp với buổi lễ,- cùng với hướng mắt tìm kiếm, tôi nghe lòng mình vẫn nghiêng về chiếc áo dài.
Và mỗi lần như thế „ÁO DÀI“ ĐANG LÀ, đang giúp tôi đắc lực nhất, thể hiện sức mạnh chinh phục của nó đối với những người khách chung quanh bằng vững chãi và tự tin, tự chủ là người Việt giữa muôn người. Với áo dài, phụ nữ Việt được có một mốt thời trang vẫn luôn LÀ à la mode, vẫn luôn hợp thời ở mọi lúc mọi nơi, không sợ bị lệch thị hiếu (goût) thẩm mỹ, bởi vì chính áo dài là chứng tích của thẩm mỹ chân thực.
Thời trang là những đám mây phù du vờn quanh cõi vô thường, áo dài và số phận của nó đã trải qua nhiều cuộc bể dâu như chính đất nước. Thế nhưng từ vườn khuya tăm tối của dĩ vãng, áo dài trở về, áo xưa lại về, trong phù du mà trở nên miên viễn, vẻ đẹp của chiếc áo không phôi pha, LÀ MÂY- muôn vẻ như „trên trời có đám mây xanh ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng“- như nỗi mong, nỗi nhớ, nỗi thương yêu, khát vọng vẻ đẹp, khắc ghi tình tự Việt Nam.
T.K.L.
Huế 7/3/2017
(Phụ nữ chủ nhật số ra ngày 12.03.2017).
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.