NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ
Ảnh: wiki
Siêu hư cấu và Auster
Bản chất của văn học là hư cấu (fiction). Điều đó không còn là một vấn đề đáng bàn cãi khi từ những thế kỷ trước Công nguyên, Aristotle đã đề cập và luận giải về vấn đề này trong Thi học (Poetics) - một trong những trước tác lý luận văn học đầu tiên của phương Tây. Tuy nhiên, từ đó đến nay, trong các sáng tác văn học từ thời trung đại cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX - thời của chủ nghĩa hiện đại, người ta hầu như vẫn chưa hề dám tuyên xưng một cách trực tiếp, dũng cảm và thản nhiên rằng những điều họ nói trong tác phẩm của mình đơn giản là sự trình hiện những thực tại hư tưởng, mà đa phần chỉ xì xầm vào tai nhau và ngầm hiểu với nhau, dù luôn xác tín, về sự tồn tại ở mông lung đâu đó của một thứ căn cốt văn học được gọi là hư cấu. Tuy nhiên, đến kỷ nguyên hậu hiện đại, chính xác là từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây1, trong văn học bắt đầu xuất hiện nhiều tác phẩm thực hành những cú “pastiche” ngoạn mục: đem chính cái bản thể uyên nguyên của mình - tính hư cấu - ra mà phô trương và giễu nhại. Siêu hư cấu (métafiction) ra đời từ đó như một khái niệm phổ quát diễn tả tình thế lộ mặt của tính hư cấu văn học: “Siêu hư cấu là thuật ngữ dùng để chỉ lối viết hư cấu - lối viết quan tâm đến tình thế của chính nó một cách tự ý thức và có hệ thống như là một thể giả lập dùng để tra vấn về mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại”2. Như vậy, siêu hư cấu là hư cấu về hư cấu, là sự tự nhận thức của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận về quá trình hư cấu. Trong các sáng tác mang màu sắc siêu hư cấu, nhà văn sẽ tự thân bóc trần sự dụng công hư cấu của chính mình cũng như tính hư cấu của các thực tại, các tự sự trong tác phẩm, đồng thời nỗ lực xóa bỏ mọi sự cảm giác tín thác nơi người đọc. Ông sẽ bảo với các độc giả của mình rằng: Anh thấy đấy, tất cả đều chỉ là những trò chơi của tưởng tượng mà tôi, trong một giờ phút vui thú nào đó, đã tạo ra, và tôi sẽ thật hân hoan nếu anh cùng bước vào đây, cùng tôi chơi đùa trong trò diễn của chữ nghĩa.
Paul Auster tỏ ra rất thích thú với kiểu cách sáng tác ấy. Hầu như trong bất kỳ một tiểu thuyết nào, dù ngắn dù dài, Auster cũng vận dụng siêu hư cấu như một yếu tính của phong cách sáng tác. Tuy nhiên, nếu như trong Thành phố thủy tinh, Căn phòng khóa kín, Người trong bóng tối, màu sắc siêu hư cấu phát lộ rõ nét (ví như trong Thành phố thủy tinh, Quinn lấy danh Auster để giả lập vai một thám tử tư và bị chính Auster-tác-giả vạch trần sự giả lập ấy; hay như trong Người trong bóng tối, sự khả tín của những câu chuyện mà nhà phê bình Brill tạo lập hầu như đều bị Auster cáo buộc là ngụy tạo), thì ở Moon Palace, cấu trúc siêu hư cấu lại có phần bí hiểm hơn, chứa đầy những ẩn ngữ: Moon Palace vừa là một siêu hư cấu về “Kẻ khác” (the Other), vừa là những vòng lặp, những cuộc uốn xoắn, vặn gãy siêu hư cấu ấy.
Hư cấu song trùng như cuộc đối thoại của những kẻ khác và tình thế bất khả tín của nó
Những cuộc đời trong Moon Palace song trùng với nhau một cách lạ kỳ như thể tất cả chỉ là những bản thể khác của cùng một cái tôi duy nhất, mà cụ thể ở đây là nhân vật trung tâm của truyện - Marco Stanley Fogg. Nếu Fogg không biết cha mình là ai, lại mồ côi mẹ từ những năm anh còn bé tí, phải đến ở với bác Victor trong chật vật, thì các nhân vật khác có liên quan đến anh cũng có kiểu cuộc đời mồ côi đầy bi thương và cô độc như thế. Solomon Barber, người được Paul Auster cho là cha của Marco Fogg (thực ra cũng chỉ là một mảnh của siêu hư cấu), có cuộc đời gần như là nguyên bản với Marco. Ngay từ nhỏ, ông đã không hề biết cha đẻ mình là ai, chỉ biết ông là một họa sĩ đã tử nạn trên đường đến vùng đất phía Tây nước Mỹ để sáng tác; còn mẹ ông, cũng rất giống với hình tượng người mẹ của Marco, là một người đàn bà không mấy bình thường vì loạn trí. Hay như Kitty Wu - bạn gái của Fogg, cô lớn lên ở Tokyo, trong gia đình một cựu quân Tưởng Giới Thạch thất trận, phải đưa cả gia đình ra nước ngoài sinh sống. Ông có rất nhiều vợ, và mẹ Kitty chỉ là một trong số những người cha cô từng yêu thương. Sau khi bà chết, ông đột nhiên quyết định gửi cô sang Mỹ du học, và rồi cô mãi mãi chẳng trở về, dù là khi ông lâm bệnh nặng từ trần. Những câu chuyện kiểu như thế xuất hiện gần như liên tục và thường xuyên trong Moon Palace đến nỗi, khi nghe Fogg kể về cuộc đời Kitty Wu, Zimmer phải thốt lên: “Nghe có vẻ quen quen, đúng không?”, “bỏ đi màu sắc địa phương, nó sẽ gần như trở thành câu chuyện của một người khác mà tớ biết”3. Có thể nói, đây là một trong số những trường hợp hiếm hoi Auster cho chính những nhân vật trong câu chuyện của mình phát ngôn để vạch trần sự hư tưởng của các tự sự. Tuy nhiên, đúng như phát ngôn của Zimmer, hình như những cuộc đời được kể lại trong Moon Palace chỉ là một cuộc phân thân của một bản thể gốc, và những kẻ khác cùng tồn hiện trong bản thể ấy đang đối thoại cùng nhau, tra vấn nhau, tương chiếu lẫn nhau.
Bên cạnh các chi tiết về xuất thân và hoàn cảnh gia đình, cuộc đời của ba thế hệ trong gia đình Barber - Julian Barber (hay Thomas Effing), Solomon Barber và Marco Fogg - còn có nhiều điểm tương đồng trùng hợp đến lạ kỳ khác. Một trong những điểm song trùng đặc biệt ấy là định mệnh du hành mà cả ba nhân vật đều gắn bó như một lời nguyền bất khả hóa giải. Julian dấn thân về miền Tây nước Mỹ, để rồi phải trải qua những điều khủng khiếp nhất cuộc đời. Đến Solomon và Marco, định mệnh ấy lại chính là chuyến phiêu lưu về vùng núi non Utah để khám phá những nơi chốn đã ghi nhiều dấu ấn khó quên trong đời bố và ông nội mình (dù Solomon đã mất bất đắc kỳ tử trên đường vì lọt xuống một huyệt mộ). Thậm chí, cái tên của các nhân vật này cũng hàm chứa một định mệnh du hành không thể chối cãi. Cái tên Solomon, ngoài sự tương đồng với tên gọi một vị vua thông thái của dân tộc Hebrew, còn có phần tiền tố “Sol” rất đặc biệt, hàm chứa một định mệnh du hành và khám phá những con đường đi của vũ trụ. Auster lý giải: “[…] Ông trở thành Sol. Các nhà thơ thời Elizabeth dạy ông rằng đó là một từ cổ chỉ ‘mặt trời’, và không lâu sau ông phát hiện đó còn là một từ tiếng Pháp có nghĩa ‘mặt đất’. Điều này khiến ông nghĩ mình vừa là mặt trời vừa là trái đất, và trong nhiều năm ông hiểu nó theo hướng chỉ một mình ông đủ khả năng bao quát trọn vẹn mọi sự mâu thuẫn của vũ trụ”.4
Tuy nhiên, cái tên Marco Stanley Fogg mới thực sự phản ánh rõ nét định mệnh cay nghiệt nhưng cũng đầy mơ mộng ấy: “Marco Stanley Fogg. Theo ông, cái tên cho thấy du hành đã ăn sâu vào máu tôi, và cuộc đời sẽ mang tôi đến những nơi chưa từng đặt dấu chân người. Marco, một cách hoàn toàn tự nhiên, gợi đến Marco Polo, người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc; Stanley là phóng viên người Mỹ tìm được dấu vết bác sĩ Livingstone ‘ở giữa châu Phi tăm tối nhất’, và Fogg, đó là Phileas, người trở thành ngọn gió bay quanh địa cầu trong vòng chưa tới ba tháng”.5
Không chỉ có những định mệnh song trùng, cuộc đời ba thế hệ nhà Barber còn trải qua nhiều biến cố giống nhau một cách hết sức ngẫu nhiên, mà đơn cử là cơn đói và nỗi cô đơn cùng kiệt mà cả ba đều ít nhất đã một lần nếm trải, như một cách cảm nghiệm sâu sắc nhất bản thể của chính mình. Trong chuyến đi đến vùng Canyon miền Tây hoang dã, vì bị Scoreby phản trắc, Byrne lại không may rơi xuống vực chết đi, Julian Barber đã bị bỏ lại giữa sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống và phải chịu nỗi cô đơn cùng khốn nhất: “Một khi Byrne chết đi, tôi không còn phải bận tâm đến điều gì nữa, và sự trống rỗng đó làm tôi hoảng sợ, tôi mang một nỗi sợ ghê gớm đối với nó”6. Với Solomon Barber, tình thế của cơn đói bản thể như thế lại nảy sinh trong một hoàn cảnh khác. Là một người đàn ông to béo, đồ sộ, ông được bác sĩ khuyên rằng phải giảm cân, và cuộc chiến đấu chống lại cơn đói là một cuộc truy vấn tồn tại, đúng như nhận xét của Marco Fogg, “cứ như thể một nửa con người ông đã biến mất, như thể một khi tiến trình đã được khởi động, không tránh khỏi việc phần còn lại của ông cũng sẽ phải biến mất”7. Tương tự, với Marco Fogg, cơn đói cũng đến như một bản mệnh: vì túng thiếu, anh đã phải trải qua một chuỗi ngày dài đói, mỗi ngày chỉ được ăn hai quả trứng; thậm chí, khi chỉ còn hai quả trứng cuối cùng, anh lại vô tình làm vỡ nó; cuối cùng, anh phải lang thang trong công viên, lạnh, đói, bệnh tật, và nhất là phải chịu cảnh huống cô đơn sâu thẳm và đau đớn nhất. Tuy nhiên, theo những phân tích kể trên, vì sao Paul Auster lại cố ý xây dựng những hình tượng của cùng một gia tộc với những nét tương đồng đến bất ngờ như thế? Theo ý kiến của người viết, dụng ý của Auster là tạo ra một hiện tượng mờ nhòe bản thể, nghĩa là vừa phân thân bản thể Marco Fogg, vừa làm cho các phân mảnh ấy trượt lên nhau, trì kéo, liên đới nhau, từ đó khiến người đọc cảm thấy băn khoăn, trăn trở, liên tục truy vấn về tính xác thực của các tự sự đang hiện lên trước mắt họ. Dường như, Thomas Effing (hay Julian Barber) không hề kể về chính cuộc đời mình mà đang kể thay Marco Fogg về một bản sao định mệnh của anh, còn cuộc đời Solomon lại là hình ảnh phía bên kia tấm gương mà Fogg đang soi chiếu và ngược lại. Những tương ảnh ấy chính là một phần cội nguồn tạo tác nên thế giới siêu hư cấu của Moon Palace.
Tuy nhiên, không dừng lại ở đây, người đọc còn có thể bắt gặp những câu chuyện song trùng với cuộc đời của các nhân vật, mà tiêu biểu là Julian Barber (hay Thomas Effing), trong những ấn phẩm hư cấu được Auster thêm vào như một cách mờ hóa thế giới siêu hư cấu - thế giới của các tự sự vốn đã rất xáo trộn và bất khả tín - trong tiểu thuyết này. Khi kể cho Marco Fogg nghe về cuộc đời mình, Thomas Effing đã yêu cầu anh phải chép lại thành một văn bản hoàn chỉnh, tựa đề Cuộc đời của Julian Barber, đồng thời viết một bản cáo phó ngắn gửi về cho tờ The New York Times như một cách tuyên cáo, lý giải chính thức với cộng đồng về sự mất tích của người họa sĩ trẻ vốn được cho là đã chết năm xưa. Hay với Solomon Barber, trăn trở về số phận kỳ lạ của người cha xấu số, ông đã vận dụng toàn bộ mọi khả năng hư tưởng của mình mà viết ra quyển tiểu thuyết Máu của Kepler với nhiều đoạn đầy kinh hãi. Câu chuyện được kể lại trong những ấn phẩm này cũng vô cùng hư cấu, khó tin, vì về bản chất, chúng cũng là một sự diễn giải của những kẻ khác về cùng một bản thể trung tâm, một bản thể với định mệnh du hành, và hơn hết, một bản thể với số phận phải chịu đựng những cô đơn cùng khốn, những dằn vặt âm ỉ của kiếp hiện sinh.
Siêu hư cấu bị uốn xoắn hay vòng lặp của lời nguyền lưu đày
Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng, nếu trong các tác phẩm khác, cấu trúc siêu hư cấu thường được Auster xây dựng không quá phức tạp (như tình thế của Quinn trong Thành phố thủy tinh hay Brill trong Người trong bóng tối,…), thì trong Moon Palace, không chỉ một hư cấu duy nhất bị bóc trần và chúng không chỉ bị bóc trần một lần, mà thế giới siêu hư cấu trong cuốn tiểu thuyết này tràn ngập những phân mảnh được tái thiết và vặn xoắn liên tục, tạo thành một vòng lặp gợi nhiều ý nghĩa biểu trưng. Vòng lặp ấy liên quan mật thiết đến cuộc đời ba nhân vật thuộc dòng họ Barber. Tuy nhiên, nếu ở những đoạn viết này, tôi quan tâm đến việc những cuộc đời ấy chỉ là những phân mảnh của cùng một bản thể đang tham dự trên chuyến du hành khám phá và đối thoại cùng nhau, thì ở đây, tôi thử quan sát từ một góc độ khác: nhìn chúng như những siêu hư cấu riêng lẻ được tái lặp liên tục trong một định mệnh quy hồi - định mệnh lưu đày.
Cả ba nhân vật, từ Julian Barber, Solomon Barber đến Marco Stanley Fogg, đều bị ám ảnh bởi vùng đất nằm ở cực Tây nước Mỹ, và dường như cứu cánh cuối cùng của họ là đến được vùng đất ấy như tìm đến một cách giải thoát. Julian Barber, từ khi được gặp giáo sư Tesla, đã lên đường đến vùng núi Utah, bỏ lại vợ con, bỏ lại sự nghiệp và tất cả. Solomon lại luôn cố hình dung và mơ tưởng về vùng núi non cực Tây, thậm chí viết cả một quyển tiểu thuyết về vùng đất ấy như một cách giải tỏa những ẩn ức, băn khoăn về cái chết bí ẩn của cha mình. Còn với Marco Fogg, vùng núi đồi hoang dại ấy lại làm anh liên tưởng đến một Mặt trăng trên chính địa cầu, và vì thế, biểu tượng mặt trăng xuất hiện trong đời Fogg như một định mệnh, từ cái quán Hoa kiều treo biển Moon Palace, từ cuộc đổ bộ đầu tiên của người Mỹ lên mặt trăng năm 1969 cho đến một huyền thoại cũng liên quan tới mặt trăng do chính anh bịa đặt ra - huyền thoại về Cyrano de Bergerac.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, khao khát ấy không chỉ ở yên trong tâm thức của các thành viên ba thế hệ nhà Barber, mà nó đôi lúc còn phát lộ dữ dội, thôi thúc họ bước vào một cuộc hành trình chinh phục, dù vô cùng nguy hiểm và gian nan. Song những cuộc du hành ấy không đơn thuần là một sự giải tỏa khao khát bản thể, mà chúng, về bản chất, còn là những hành trình tự lưu đày. Nói như thế là bởi, vùng đất phía Tây nước Mỹ là nơi chứng kiến những cuộc tàn sát cuối cùng của dân da trắng đối với thổ dân da đỏ trước khi họ bị xóa sổ gần như hoàn toàn, và những người da trắng, vì thế luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về cái cúi đầu tạ tội trước những tộc người dị chủng và định mệnh lưu đày như một cách trừng phạt tự thân. Định mệnh này kéo dài dai dẳng và bền bỉ, âm thầm nhưng cay nghiệt và đớn đau, bởi nó truyền kiếp từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Julian chất chứa đầy ân oán với những người da đỏ; sự nghiệp nghiên cứu và quyển tiểu thuyết của Solomon lại có liên quan trực tiếp đến lịch sử và số mệnh của các dân tộc thổ dân; hay với Marco, khi một mình lái xe đến vùng núi đá Utah tìm kiếm những nơi chốn đã gắn bó cùng ông nội mình, anh lại bị những thổ dân lấy mất xe, tiền và khiến anh rơi vào một trạng thái trống rỗng cùng cực. Có thể thấy, Auster đã rất khéo léo xoắn vặn những siêu hư cấu để chúng tạo thành một cấu trúc có khả năng biểu đạt những vấn đề có liên quan đến định mệnh và số phận của một tộc người. Những hư cấu nhập nhoạng, bất khả tín trong Moon Palace, vì thế, cũng không dừng lại ở việc tạo ra một cuộc đối thoại và truy vấn giữa những kẻ khác trong bản thể của một cá nhân vô danh, mà còn là giữa những kẻ khác nằm sâu trong cái bản thể uyên nguyên của những lớp, những thế hệ người da trắng đã vượt nửa vòng trái đất để đến đây từ hơn 300 năm trước, man dại và nhẫn tâm tàn sát cả một tộc người bản địa [thậm chí là nhiều tộc người].
Moon Palace là một tiểu thuyết khó đọc nằm ẩn dưới hình hài của một câu chuyện dễ chịu và nhẹ nhàng. Nhưng cũng chính vì thế mà nó đáng đọc. Đọc Moon Palace, phải đọc đủ lâu và đủ sâu, để đau đớn và hân hoan nghe những bản thể đối thoại cùng nhau, để nghe những day dứt, ăn năn, và cả những lời hối lỗi chưa bao giờ là quá muộn.
N.Đ.M.K
(TCSH353/07-2018)
-------------
1. Phạm Ngọc Lan (2013), Tư liệu văn học: lý thuyết siêu hư cấu. Xem ngày 01/06/2017. Nguồn: http://www.hcmup.edu.vn/
2. Patricia Waugh (2001), Metafiction: The Theory and Practice of Self-Conscious Fiction, Routledge, tr.2.
3. Paul Auster (2009), Moon Palace, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội: Nxb. Văn học, tr.141.
4. Paul Auster (2009), sđd, tr.399.
5. Paul Auster (2009), sđd, tr.17-18.
6. Paul Auster (2009), sđd, tr.258.
7. Paul Auster (2009), sđd, tr.472.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?