Môi trường trong văn hóa Huế

14:28 26/08/2022

NGUYỄN KHẮC THẠCH

Ngày nay nói đến văn hóa không thể không nói đến môi trường, cụ thể hơn là sự ứng xử của con người đối với thiên nhiên. Tính thời sự cấp bách từ môi trường đã cảnh báo sự sống mong manh của hành tinh đang đứng trước nguy cơ "chung cuộc với ngày tận thế".

Ảnh: internet

Theo quan niệm (định nghĩa) chung nhất và có phần cổ điển thì văn hóa là sự "vượt tuyến bản năng", là những gì khác với tự nhiên. Nó cũng có nghĩa rằng, văn hóa là sự tương tác mang tính chất "cải tạo” giữa ý thức con người với thế giới tự nhiên. Như vậy, ở một mặt nào đó, quá trình con người "làm ra văn hóa" cũng là quá trình con người phá vỡ trật tự của tự nhiên, phá vỡ sự "trinh bạch" của môi trường.

Vùng văn hoá là những nét đặc trưng được sinh thành trong điều kiện tự nhiên và quá trình lịch sử của nó. Văn hóa Huế với tư cách là kinh đô một thời thì trước hết nó là sự kế thừa, sự kết tinh mọi tinh hoa của cả cộng đồng người Việt rồi bước tiếp theo là quá trình cá tính hóa đi đến bn sắc riêng. Bởi vậy, nếu nói về sự "giàu có" theo ý nghĩa của từ này thì văn hóa Huế có vô số đề tài, vô số vấn đề và trên mọi lĩnh vực. Tùy tiêu chí và mục đích mà người ta có thể nghiên cứu, tìm hiểu nó trên từng khía cạnh, từng đối tượng. Ở đây, chúng ta thử xem vấn đề môi trường trong văn hóa Huế và cũng chỉ xin được giới hạn nó trong "cặp phạm trù" Ăn Chơi.

Từ xa xưa, người Huế đã có thú chơi nhà vườn. Và cũng từ sự đề-pa (départ) "thú chơi" nên vườn Huế không "xanh màu kinh tế" mà nó "xanh màu văn hóa". Một mẫu đất vườn đâu đó có thể nuôi sống cả gia chủ nhưng ở đây, may ra thì cũng "chỉ đủ ăn" cho bản thân nó. Nghĩa là thuế đất, thuế vườn, nghĩa là tái sản xuất nguyên thủy. Mặc dù từ ngoài nhìn vào, nó có vẻ trù phú "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" nhưng cũng chỉ để "lá trúc che ngang mặt chữ điền" mà "Nhìn nắng hàng cau..." - (Hàn Mặc Tử). Bao giờ và ở đâu cũng vậy, đã mơ mộng thì không hề thực dụng. Vườn Huế luôn phô bày sự kín đáo của nó trong dáng nét đan thanh trầm mặc và rưng rưng sương khói. Những khu nhà xưa cổ kính, những mảnh vườn chùa tĩnh mạc như còn ấp ủ trong đó cả bí ẩn sự sống và triết lý nhân sinh. Có thể nói, vườn Huế là những tác phẩm nghệ thuật. Nó song song với nghệ thuật tạo hình cây kiểng. Cây kiểng ở Huế không chỉ là mốt chơi quý tộc mà nó trở thành nhu cầu bình dân của mọi nhà, mọi người. Dù ít, dù nhiều, từ nhà trệt lên gác thượng, từ mặt đất xuống vạn đò, đâu đâu cũng có. Ở những gia đình khả dĩ thì cây kiểng của họ cũng độc cấp thượng lưu. Trong những khu vườn quý phái, vừa trồng cây trái, vừa nuôi cây kiểng, hoa quả thơm dâng bốn mùa. Ở đây, đôi khi cũng thấp thoáng những quán cà phê trang ẩm cổ điển.

Chìm vào sự nổi là không gian ao hồ, hào mương đan xen, bao bọc quanh những công trình nhà cửa, thành quách, chùa chiền tạo ra sự hài hòa, đối xứng cho quần thể kiến trúc Cố Đô. Dù nuôi sen, thả cá hay trồng rau thì hệ thống ao hồ ấy cũng là những "ốc đảo" có khả năng điều giải nhiệt và thanh lọc hợp lí bụi bặm trong đô thị. Ở đấy cũng là cuộc sống hoang dã của muôn loài côn trùng rất có ích cho môi sinh. Trên vòm xanh, những đàn chim trời còn được cất tiếng hót ríu ran nhờ sự kỳ thị của dư luận đối với cây súng săn trong tay những gã bắn lén. Hội chim và người chơi chim ở Huế vẫn âm thầm, bền bỉ nuôi và giữ lại được nhiều loài chim quý hiếm cho thiên nhiên. Môi trường là thế đó. Trong một căn phòng chật chội, nếu có một chậu cá cảnh thì nó cũng đủ làm thư giãn giác quan và đem lại sự thanh thản cho tâm hồn. Chưa đủ, người ta còn làm ra những con diều giấy như những bức thông điệp thả về trời để nói rằng, nơi đây đang cần sự sống, đang tái tạo sự sống và đang muốn "gieo trồng" thêm một thiên nhiên khác nữa. Cùng với núi non, cỏ cây, sông biển, vườn Huế, cảnh Huế đã làm nên một tng phổ giao hưởng xanh mặt đất. Kiểu chơi này đã mở ra và giữ lại cho Huế một cảnh sắc thanh bình, tươi tắn. Nó đem lại trạng thái tĩnh tâm, mơ hồ, sâu lắng cho con người sống trong đó luôn có cảm giác như đang đứng giữa hai bờ mộng thực. Đấy cũng là yếu tố "kẻ cả" làm lên tính cách và bản lĩnh của con người Huế Đô. Đi đến cùng thì "nghề chơi cũng lắm công phu" và mỗi vùng văn hóa đều có nét độc đáo riêng của nó. Người Nhật thâm uyên đến cực đoan trong "trà đạo", "kiếm đạo" hoặc "ngồi thiền xem đá mọc". Còn người Việt mà đại diện ở đây là "văn hóa Huế" thì nó lại mang đậm nét mặc cm tự tôn đè lên mặc cm tự ti.

Nói đến sự ăn ở Huế, lâu nay người ta chỉ quan tâm, khai thác nó ở góc độ ẩm thực, ở bình diện thưởng thức mà quên đi rằng, nó còn có một cấp độ khác nữa - cấp độ triết học. Đó là tập quán và chủ trương ăn chay. Người Huế ăn chay không chỉ ăn vì sự lạ miệng mà "ăn" từ trong tâm thức của họ. Xét về mặt khoa học, mỗi tháng ăn chay hai ngày (mồng một và rằm) để bớt độ nhàm nhạt và tạo ra sự đổi chất trong huyết mạch thì nó có ý nghĩa như một cuộc tổng vệ sinh cơ thể. Lực lượng ăn trường chay ở Huế cũng đáng kể. Các bậc tu sĩ trong hàng trăm ngôi chùa, các vị cư sĩ, các phật tử và những gia đình có cơ duyên ăn chay khác khá là đông đảo. Các quán ăn chay, nhà hàng chay mở ra ngày một nhiều. Ăn chay sẽ làm cho con người trở nên điềm tĩnh và nhân bản hơn, nói chi đến con người, ngay ở loài vật cũng vậy. Những con vật ăn cỏ thường hiền lành (voi, thỏ, bồ câu). Những con vật ăn thịt thường hung dữ (hổ, sói, đại bàng). Thức ăn từ động vật gồm những chất tạp, nặng khó tiêu, dễ kích thích những dục vọng trần tục của bản ngã thấp hèn. Thức từ ngũ cốc gồm những hoạt chất nhẹ, tinh dễ tiêu, dễ cảm xúc lành mạnh hướng đến những ham muốn cao thượng. Từ 500 năm trước công nguyên, nhà hiền triết Hy Lạp Pythagore đã từng cho rằng "ăn thịt sẽ chặn đứng khả năng tiên tri”, ông chủ trương ăn chay theo dạng thô, tươi sống và nước lã cho lối sống được giản đơn, gần với tự nhiên. Tạo Hóa đã ban cho con người và loài vật nguồn thức ăn phong phú từ thảo mộc, ngũ cốc, cây trái. Ở đấy cũng là vườn giống khổng lồ để tái sinh, duy trì nguồn thức ăn vô tận. Thế nhưng từ cái "vườn địa đàng" mênh mang, hỗn độn này, vì sự vô minh và mê lầm mà con người và loài vật đã ăn thịt lẫn nhau. Vậy, một khi người ta giác ngộ được vấn đề này để trở lại ăn chay thì việc ăn chay ấy đã nâng lên tầm triết lí. Thuyết này cho rằng, ăn chay là cuộc cách mạng dịu êm nhất mà sâu sắc nhất, là một cuộc hành hương vĩ đại trở về nguồn. Rồi sự giết chóc sẽ được triệt tiêu và các loài vật vô tội kia cũng sẽ được thông dự vào quyền sống thiêng liêng về mặt sinh học như con người. Môi trường là không gian tồn tại sự sống và sự chết tự nhiên, bình đẳng của muôn loài. Việc trồng trọt cây lương thực, cây thực phẩm làm thức ăn cho người và loài vật sẽ được tăng cường. Những đồi trọc và vùng đất bị sa mạc hóa đều có thể trở thành thảm thực vật. Từ đó, thiên nhiên được thiết lập lại trong thế quân bình môi sinh và cân bằng sinh thái. Con người lại được tắm mình trong thế giới trong trẻo, tinh khiết đầy hương vị của thiên nhiên. Đấy cũng chính là hình ảnh một thiên đường xa xôi nào đó trong siêu tượng con người trôi lên mơ ước. Ngày nay, khoa học thực nghiệm cũng đã thừa nhận rằng "Ăn chay là chế độ ẩm thực cứu rỗi hành tinh, chặn đứng được hiệu ứng nhà kính và nuôi sống thế giới thứ ba" - (TCM số 60/1993).

Khi đã ăn chay thì các vật thải từ đó cũng ít bẩn hơn, ít độc hơn. Những đầu tôm vảy cá vừa bỏ vào giỏ rác đã bốc mùi tanh tưởi, trong khi đó những cọng rau, bã đậu cũng vứt như thế thì chưa hề chi. Ăn chay là tùy nghi, nó không cần nhiều những nhà máy chế biến đồ hộp, bao bì như thịt, cá làm gia tăng rác rưởi công nghiệp.

Ăn thịt, sẽ không dừng lại ở thịt mà sự "kéo theo" các nhu cầu khác cho "đồng bộ" với nó như uống rượu, hút thuốc và vân vân, đều là những tác nhân gây hại môi trường.

Bối cảnh môi trường Huế vẫn thấm đẫm tinh thần từ bi của Đạo Phật. Trong sự vô thường của trời đất, con người vẫn yêu thương loài vật, cỏ cây và thậm chí cả đồ vật nữa. Có cháu bé vì thương chiếc quạt máy chạy hoài mà thà chịu nóng bức còn hơn bắt nó chạy tiếp. Cây cối trong những nương vườn gia phong còn được chít tang khi chủ nhà qua đời. Những người có tấc lòng trắc ẩn thường bỏ tiền ra mua lại sự sống cho những con chim mắc bẫy, những đàn cá sa lưới. Chỉ có lòng thương yêu thực sự thì mới làm được điều đó và mới có hy vọng bù đắp được sự trống rỗng, mất mát cho thiên nhiên. Bởi vậy, mặc dù những năm gần đây, ủy ban môi trường và phát triển thế giới (World commission on Invironment and development) đã đề ra nhiều giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ môi trường nhưng không mấy hữu hiệu vì nó chỉ đơn tuyến lý trí. Lí trí là cái vừa khôn ngoan, sắc sảo vừa ích kỉ tàn nhẫn. Điều này, minh chứng có ý nghĩa thời sự nhất là khởi đầu công vụ của vị tân tổng thống Pháp Giắc Si-lắc, vừa nhậm chức đã nóng nảy tuyên bố thử hạt nhân một cách lạnh lùng! Nền văn minh phương tây cũng đem lại sự tinh tế, thức thời cho ngôn ngữ giao tiếp bằng những câu chào hỏi đầu miệng "How green are you?" hàm ý sức khỏe với môi trường. Thế nhưng đấy cũng chỉ là lý trí và lý trí mà thôi. Việc tuyên truyền giáo dục vì một "Tương lai chung của chúng ta" (our common Future) phải được tác động từ hiểu biết đến lòng thương yêu đối với thiên nhiên, với cỏ cây, muông thú. Nếu con người vượt qua được những tri kiến ngộ nhận để thấy mình mãi mãi là trẻ thơ mà thiên nhiên là bầu sữa mẹ thì thái độ ứng xử với nó, với môi trường không chỉ bằng toan tính khô khan. Kinh thánh đã chỉ ra rằng, vì TÌNH YÊU mà Thượng Đế đã sáng tạo ra loài người, và vũ trụ từ trong hư vô. Con người coi đó là một ân sủng và đeo đẳng mặc cảm "sự vay" mà không biết trao "sự trả" một cách sòng phẳng cũng chính bằng TÌNH YÊU... Tình yêu là cái ĐẸP, là cái có thể "cứu chuộc thế gian này".

Trở lại vấn đề văn hóa Huế và đi sâu vào ngõ ngách của nó, ta thấy rằng ở đây đã có cả những mô hình "văn hóa ăn" và "văn hóa chơi" lành mạnh theo tinh thần hướng thiện. Chính nhờ vậy mà trong quá trình "làm ra văn hóa" con người ở đây đã không bạc đãi với thiên nhiên mà còn góp phần bảo tồn và tôn tạo nó. Bởi vậy, dù đi qua bao thăng trầm, Huế vẫn giữ được chất thơ mộng ban đầu của nó. Chất thơ mộng ấy không chỉ ở những danh lam thắng cảnh, những đền đài lăng tẩm, những con đường góc phố sạch sẽ mà còn ở cả nếp sống, nếp sinh hoạt mang "dáng dấp thiền" của con người xứ Huế. Tất cả những cái đó, cũng có thể nói, đấy là văn hóa, "văn hóa môi trường".

Có lẽ môi trường Huế cho đến giờ, vẫn là mô hình lý tưởng nhất so với các đô thị khác.

N.K.T
(TCSH78/08-1995)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.