Mở đường về Nam

16:41 24/02/2009
HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

Sau buổi lễ bế giảng khoá học, đồng chí Hiệu trưởng Thượng tá Nguyễn Khang trường sĩ quan công binh mời số anh em học viên miền Nam ở lại để tâm sự và dặn dò: “...Trước giờ các đồng chí lên đường về miền Nam chiến đấu tôi tha thiết nhắc lại: kẻ thù rất thâm độc và xảo quyệt... các đồng chí hãy luôn luôn cảnh giác, đề phòng cạm bẫy, rất thận trọng trong khi tháo, gỡ bom mìn, luôn nhớ là không bao giờ có được sai lầm lần thứ hai. Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, lên đường giải phóng miền , chiến đấu thắng lợi!”.

Mùa khô năm 1966 mở đoạn đường B68 là đoạn đường rẽ từ đường mòn Hồ Chí Minh nối đến Tà Lương. Đoạn đường từ Tà Lương với Huế trước kia Ngô Đình Diệm đã làm để tiến đánh ra miền Bắc Việt Nam.
Giữa núi rừng Trường Sơn trùng điệp xuất hiện con đường rộng thênh thang tiếp giáp với Tà Lương. Bọn Mỹ Thiệu dự đoán kế hoạch chi viện của ta. Đêm dùng máy bay B52 rải bom, ngày loại thần Sấm, con ma rải bom và bắn phá rất ác liệt.
Sáng sau, máy bay trinh sát Mỹ thấy vết bánh xe ta hoạt động, Mỹ liền rải chất độc hủy diệt màu xanh lá cây để dễ thấy những đoạn xung yếu đánh phá hiệu quả hơn, song sự chi viện cho chiến trường không hề ngưng trệ.
Năm giờ sáng ngày sau, Mỹ đổ bộ quân xuống đoạn đầu đường B68 gài nhiều loại mìn và các loại vũ khí nguy hiểm giết người dài vài trăm mét. Mười giờ bọn Mỹ cút xéo!
Đơn vị tôi C1 - D4 - Binh trạm 42 - Đoàn 559 nhận nhiệm vụ quét sạch mìn. Trong đại đội hầu hết anh em người Hà Bắc, chỉ riêng tôi là dân Nha Trang và đã học trường Công binh.
Tôi được phân công đi trinh sát cùng ba chiến sĩ tìm Mỹ gài mìn bằng mắt thường, may sao trời không mưa nên những nơi Mỹ gài mìn đều dễ phát hiện.

Tôi đi trước và mỗi người cách nhau mười mét. Mới đi vài chục bước thấy ba sợi chỉ màu xanh lá cây giăng ra ba hướng. Tôi biết đó là mìn râu tôm. Vướng dây chỉ ấy hoặc dẫm lên ba râu là mìn nổ. Quan sát thật kỹ: cắt dây chỉ, rồi đến quả mìn, gài chốt an toàn, tôi định giở mìn lên. Song nhớ lời đồng chí Hiệu trưởng Nguyễn Khang, tôi cột dây quả mìn và lùi lại cùng đồng chí chiến sĩ kề tôi, tìm nơi ẩn nấp. Tôi kéo dây, mìn nổ vang cả núi rừng. Hai chiến sĩ phía sau chạy tới liền hỏi: “Sao mìn nổ vậy thủ trưởng? “Tôi cười khì, và nói: “Bọn Mỹ xảo quyệt thật! Đã gài mìn còn gài bẫy bí hiểm nữa, nếu không cảnh giác thì mình đã kết duyên với tử thần rồi!” Nghe mìn nổ, đơn vị mang cả cáng thương chạy đến, đồng chí chính trị viên ngỡ ngàng hỏi: “Mìn nổ mà các đồng chí vẫn bình thường vậy sao?” Một chiến sĩ nhanh nhảu trả lời: “Thủ trưởng đang nghiên cứu phá bẫy gài mìn của Mỹ đấy!” Đồng chí chính trị viên như người chị hiền trầm ngâm lo lắng cho chúng tôi, nói: “Các đồng chí về nhà nghỉ ngơi và rút kinh nghiệm, sau đó ta tiếp tục!” Tôi hiểu ý và đề nghị cho chúng tôi được tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ sớm nhất. Từ chỗ mìn đã nổ, bước vài bước thấy giữa vệt bánh xe có đất mới. Bới đất thì đây là loại M11 để chống xe cơ giới và xe tăng. Đề phòng Mỹ gài bẫy, đào đất quanh quả mìn chẳng thấy gì, giữ chặt quả mìn, đào đất dưới đáy quả mìn rờ gặp ngòi nổ phụ hình khối trụ đường kính 2cm, dài 3cm gài chốt an toàn ngòi nổ chính và phụ rồi cột dây vào mìn M11, tìm nơi ẩn nấp. Tôi hô: Kéo! Ba chiến sĩ giật mạnh dây, quả mìn bật tung lên an toàn. Nét mặt các chiến sĩ rạng rỡ nụ cười sung sướng. Riêng tôi lại lầm lì đi tìm gỡ một quả mìn râu tôm khác để về huấn luyện cho đơn vị.

Sớm tinh mơ, sương mù dày đặc, khí hậu mát mẻ, chim chóc hát vang vui tai. Đứng trước hàng ngũ chỉnh tề với những gương mặt anh hùng của các chiến sĩ, tôi mạnh dạn nghiêm nghị, nói: “Nhiệm vụ gỡ mìn rất nguy hiểm đến tính mạng, đồng chí nào cảm thấy không nắm chắc các động tác gỡ mìn thì được tự nguyện bước ra khỏi hàng!”. Sau vài phút im lặng, chẳng có chiến sĩ nào bước ra khỏi hàng cả. Tôi liếc nhìn đồng chí chính trị viên nét mặt rạng rỡ, vui mừng, xúc động nghẹn ngào và chứa đầy niềm tự hào với chiến sĩ của đơn vị. Tôi nói tiếp: “Đi gỡ mìn là cảm tử quân âm thầm lặng lẽ! Mất cảnh giác và sơ suất chỉ một lần là hy sinh! Chiến sĩ công binh tháo, gỡ bom, mìn nên ghi lòng tạc dạ!
Đơn vị đã gỡ cả trăm quả mìn.
Mặt trời đã xế bóng, đồng chí Trần Minh Thông trung đội trưởng B1 chạy đến: “Báo cáo thủ trưởng! B1 gặp bãi mìn quái lạ lắm. Tôi đã cho anh em dừng lại và tìm nơi ẩn nấp, xin ý kiến thủ trưởng!”.

Bãi mìn dày đặc kỳ quái trên đoạn đường cong hiểm trở, dây chỉ xanh lá cây, dây nổ màu đỏ giăng chằng chịt đất đỏ mới khắp mặt đường và lên trên sườn đồi. Nhìn bãi mìn mà lòng tôi cảm thấy ngao ngán và rùng mình. Một cảm giác so đo tính toán trong đầu tôi. Anh em miền Bắc vì quê hương miền sẵn sàng xả thân, còn tôi là dân miền , là thủ trưởng đơn vị mà lại chần chừ sự hy sinh này sao!
Tôi lầm lì và hết sức thận trọng từng bước đi, từng động tác, nhìn nhận chính xác và phân tích kỹ mưu mẹo của kẻ thù. Trời nắng, nóng rực, cả đơn vị hầu như nín thở theo dõi tôi hoá giải các bẫy mìn từ mặt đường lên đến đồi dốc cao hơn mười mét, rải dài hơn hai mươi mét: 4 quả mìn M11, 8 quả mìn râu tôm, 4 quả mìn M34 (loại này giống quả lựu đạn to; nặng 5 kg), 4 quả bom cháy Phospho (dài 1m20, đường kính 25cm) 4 bao chất độc hoá học đã bị chọc thủng: mùi rất hôi, bị hít vào phổi,  ngực đau tức như muốn ngừng thở; mắt cay xè, nước mắt chảy ròng ròng nhức nhối rất khó chịu.
Bãi mìn và các loại vũ khí giết người đều có gài bẫy phụ, có dây nổ liên kết nhau, hễ nổ một nơi là toàn bộ đồng loạt nổ hết luôn.
Đơn vị hoàn thành nhiệm vụ mất 2 ngày và có 3 chiến sĩ gỡ mìn anh dũng hy sinh.

Sau 3 ngày Mỹ vẫn thấy vết xe ta lăn bánh, chúng rải bom trên tuyến đường B68. Thấy bom rơi mà chẳng nghe nổ quả nào. Trinh sát về báo cáo: các nơi thả bom đều thấy cả bom từ trường, bom nổ chậm lẫn lộn. Mỹ chơi xỏ thâm độc, gây rất nhiều sự khắc phục cho ta. Phá bom dù là loại gì thì cũng đơn giản thôi, song phá bom mà ảnh hưởng đến sự tiếp viện chậm trễ cho chiến trường là có tội với dân, đơn vị phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng. Tổ trinh sát cuối cùng về báo cáo có một quả bom nổ chậm nằm ngay sát mố cầu. Phá bom thì hư cầu, ít ra phải mất 2, 3 đêm không trông xe được và mất rất nhiều công sức và vật liệu. Ban chỉ huy quyết định đào lên, lăn bom xuống vực. Đồng chí Lê Tấn Bình trung đội trưởng B2 và ba chiến sĩ tưởng đấy là bom nổ chậm, sẵn có xẻng sắt, đào đất nhanh tay và đều sinh ra cảm ứng từ trường. Bom nổ. Bốn đồng chí hy sinh chỉ nhặt được vài miếng thịt rơi xuống mặt đường cạnh góc thành ta luy.
Đây có thể là loại bom kết hợp vừa mang tính từ trường và nổ chậm. Chúng tôi không lường hết nổi sự thâm độc của bọn Mỹ. Nếu chúng tôi nhạy bén cảnh giác đào đất bằng xẻng đồng thì chưa chắc đã xảy ra sự mất mát đau thương này. Một bài học hết sức đau đớn và cay đắng bằng xương máu của đồng đội, đồng chí!

Hai ngày sau máy bay trinh sát Mỹ vẫn thấy vết xe ô tô lăn bánh. Một giờ đêm máy bay B52 rải bom hai lượt và năm giờ sáng máy bay FA và F105 thay phiên nhau nhiều lượt rải bom và bắn phá liên tục đến mười một giờ trưa.
Ngớt tiếng máy bay, để trinh sát về báo cáo có một quả bom nổ chậm nằm ở góc cùi chỏ có độ dốc cao. Nếu phá bom thì đêm nay xe không qua được. Nếu không phá bom thì lái xe không dám đưa xe qua. Ban chỉ huy đại đội quyết tâm đào bom lên. Đào đất bằng xẻng đồng an toàn. Anh em đã đào lên và báo cáo không phải bom từ trường mà cũng không phải là bom nổ chậm. Tôi ra xem, đây là một bom đặc biệt chống tháo đầu ngòi nổ. Anh em định lăn xuống vực. Tôi ngăn lại và suy nghĩ: nếu tôi không tháo đầu ngòi nổ ra thì hậu quả sau này sẽ có vài người chết. Bộ đội hoặc đồng bào dân tộc thiểu số không biết phương pháp tháo đầu ngòi nổ ra. Tháo ngòi đầu nổ quả bom chống tháo như tháo bình thường thì bom nổ tức thì. Tôi xin tình nguyện tháo đầu ngòi nổ. Hoan chính trị viên đang trầm ngâm suy nghĩ chưa dám trả lời thì đồng chí Ứng Công Minh phó chính trị hỏi: “Anh có bảo đảm an toàn không?. “Tôi thản nhiên: “Tôi biết khả năng của mình, mong hai đồng chí yên tâm!”.

Đồng chí Võ Văn Mạnh trung đội trưởng đẹp trai lực lưỡng luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ khó khăn nhất và trong cuộc sống rất tế nhị, bất giác hỏi tôi: “Tháo ngòi nổ bom có gì mà thủ trưởng cẩn thận đến thế”. Tôi xuề xoà nói: “loại bom này hơi khó tính, mình cảnh giác và chiều chuộng một chút cho an toàn chứ có sao đâu!”. Tôi không dám nói sự thật những gì đem đến sự nguy hiểm đến tính mạng mình và đồng đội.
Đặc điểm khi tháo ngòi đầu nổ bom chống tháo là lăn và lắc mạnh để làm sao hòn bi luôn luôn nằm dưới đáy quả bom xoắn theo vòng xoáy, tay nắm đầu ngòi nổ phải nhạy bén và giữ chính xác từng động tác, đầu ngòi nổ dần dần được tháo ra. Nếu để hòn bi leo lên và kẹt lại là bom nổ. Sau ba mươi phút lao động nguy hiểm, tôi thở phào nhẹ nhõm. Đồng chí chiến sĩ trẻ Hà Sinh da ngăm đen, cơ bắp cuồn cuộn nổi lên khoẻ khoắn nhe răng cười, rồi thắc mắc: “Bom gì mà quái gở thế! “Tôi phân giải: “Loại bom này, Mỹ chế tạo, nếu ai dám tháo đầu ngòi nổ là phải chết ngay tức khắc! Gọi là bom chống tháo đầu ngòi nổ, nhưng ba anh em chúng ta đã tháo ngòi đầu nổ ra rồi mà vẫn ung dung tán phét đấy thôi!” Anh em lè lưỡi ngao ngán và rùng mình.

Với lòng yêu quê hương miền Nam ruột thịt là bộ đội cụ Hồ, là em thân thương của người anh cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi chiến đấu như những cảm tử quân, chỉ có quyết thắng và coi sự hy sinh cá nhân mình cho Tổ quốc nhẹ nhàng, bình thản như những nông dân bình thản cày cuốc ra đồng ruộng lao động vậy thôi!
H.K.P

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Kỷ niêm ngày thương binh - liệt sỹ 27.7)

  • CHÍ CÔNGNghe xã ấy chuẩn bị gặt chiêm, làm được nghĩa vụ lương thực, thuế nông nghiệp và hè thu 1983 sớm hơn các nơi khác, tôi cùng hai cán bộ cơ quan đi về đấy rút kinh nghiệm để có kế hoạch tuyên truyền sát thực tế.

  • VĨNH QUYỀNXe vượt qua một khúc quanh, màu lúa xanh rờn đột ngột hiện ra phía trước. Chúng tôi vừa để lại đằng sau thành phố Huế cổ kính. Hai ngày qua, chúng tôi đã đi thăm và làm việc ở đấy.

  • ĐẶNG THỊ HẠNH                 Tùy bútVề cái thị xã cỏn con mà chúng tôi đến vào cuối đông năm ấy, ký ức tôi giữ lại còn bị giới hạn hơn nữa, do bao giờ không gian về một nơi nào đó ta giữ lại từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, cuối cùng cứ hẹp dần lại để chỉ còn rút lại ở không gian ta quen thuộc nhất.

  • PHAN THỊ THU QUỲCách đây trên 80 năm, trên con đường làng ấy, đến tết, dưới hai bụi tre Là Ngà mát mẻ người ta thường đánh bài chòi. Một công tử họ Phan ở làng Đốc Sơ làm trong triều nội với chức Hàn lâm viện Biên tu, và một thiếu nữ họ Bùi con nhà giàu làng Đốc Bưu, ngồi bên chòi thành hai phe. Hễ công tử đi một con bài thì thiếu nữ trúng và ngược lại.

  • HÀ THÀNHChúng tôi chuẩn bị hành trang theo đoàn công tác đặc biệt của tỉnh Thừa Thiên Huế, sang làm việc với tỉnh Xa-ra-van nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Để chuẩn bị đón nhận các hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở chiến trường Lào về nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)Vào một sáng đầu thu, tôi tìm đến khu tập thể Trung Tự, Hà Nội, nơi nhà văn Bùi Hiển đang sống cùng con cháu. Ông là một trong số những người đầu tiên tham gia thành lập Phân hội Văn nghệ Thừa Thiên tháng 10 năm 1950, tổ chức tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế hiện nay.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Hồi ký(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)

  • VŨ ĐÌNH HÒE       Trích đoạn trong cuốn Hồi ký "Pháp quyền - Nhân nghĩa Hồ Chí Minh".

  • THÁI KIM LAN       Viết tặng Lisa Eder

  • PHẠM NGỌC CẢNH                        Bút ký Sau này tôi mới biết cụ Đỗ Tất Lợi. Dành dụm mãi tiền sinh hoạt phí của một anh lính, tôi ra cửa hàng sách quốc văn. Mua một cuốn Nam dược... về đặt đầu giường như cái gối. Gối lên những kỷ niệm về cây, về lá để nhớ thương bà. Những trang viết về cây ngải cứu, cây thạch xương bồ, cây bồ công anh hay như những bài thơ. Những trang viết về củ nghệ, củ gừng, quả mướp đắng, trái me chua phúc dày như kinh Phật.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOKim Mai thân nhớ,Ngày giáp Tết, tôi về miền thơ ấu. Cây đa cổ thụ, ngôi miếu rêu phong vẫn đứng giữa đồng quê như đợi như chờ từ vạn kỷ.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG                               Bút ký Dải đất Việt khi chạy dài vào tới miền Trung thì xép lại trong một khúc eo. Một bên là dãy Trường Sơn hùng vĩ che chắn. Một bên là biển rộng sóng vỗ bờ.

  • NINH GIANG THU CÚC                         Ghi chép Thuở còn bé tí tẹo tôi thường được người lớn kể cho nghe chuyện một anh chồng Cọp đi rước Cô mụ (nữ hộ sinh) cho chị vợ đang đau bụng đẻ.

  • TRÍ NHÂN       Truyện kýNăm 1954, đa số cán bộ, đảng viên ở chiến trường miền đều tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Chỉ có một số ít cán bộ, đảng viên cốt cán được bố trí ở lại trong vùng tạm chiếm để xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức lực lượng đề phòng địch phá hoại Hiệp định đình chiến.

  • NHẤT LÂM         Bút ký Năm 1948, từ đồng bằng huyện Triệu Phong, chúng tôi vượt quốc lộ 1A lên một xã miền núi, xã Phong An. Hồi ấy rừng bạt ngàn vô tận, xã Phong An chỉ cách thị xã Quảng Trị chừng mười cây số, do núi rừng ngút ngàn, mà trở nên xa vời như xứ sở lạ lùng ngàn dặm. Chúng tôi bảo nhau: đề phòng cọp từ bụi rậm vồ tươi như đùa. Nhìn núi cao và cây rừng trùng điệp, con người trở nên hồi hộp, lo sợ mơ hồ; lại đi ban đêm, đi lần đầu giữa rừng, sợ là tất nhiên.

  • HƯƠNG GIANG(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • HOÀI NGUYÊNTiếng tiêu trầm của nỗi cô đơn...

  • TRUNG SƠNTrong số những con vật gần gũi với con người, con mèo không đứng vị trí thứ nhất thì cũng nhì. Chỉ riêng việc chú mèo có đặc quyền thỉnh thoảng "chung chăn" với con người lúc trời mưa rét cũng đủ để xếp chú đứng ở thứ bậc cao trong mối quan hệ với con người. Cũng vì vậy, trong thành ngữ và tục ngữ có nhiều câu nói đến con mèo ngẫm ra khá thú vị.

  • ĐOÀN MINH TUẤN                     Tùy bútĐã từ lâu lắm, nhiều mùa xuân đã qua, nhà văn Đoàn Giỏi có cho tôi mượn cuốn sách rất hay viết về "chó và mèo trên thế giới" của hai tác giả người Pháp Marlyse et Frange.