LÊ TẤN QUỲNH
Khi cơn mưa tung tẩy rót vào tôi cơn váng vất bò ngùng ngoằng trên những nỗi si mê rần rật lan dần từ nỗi nhớ mơ hồ, tôi đã trượt chân mà té ngã xuống một thứ trong veo đang chậm rãi chảy đến sau vô vàn những mảnh thời gian lỉnh kỉnh nhú vỡ ra từ cái khoảnh khắc cuối chiều.
Huế bây giờ thực sự đã bắt đầu cuộc sống như muôn thuở của mình, cuộc sống mang tên Mưa. Nhưng mùa mưa Huế chẳng hề đến một cách vội vã và nhiều khi chậm rãi đến sốt ruột và bực cả mình nếu ai không biết. Và cũng chẳng như là cuộc loanh quanh tìm kiếm một niềm vô vọng nào đó. Cơn mưa tự nhiên đến như nó vẫn bao tháng năm phải đến mang theo chút quà lành lạnh. Chút hồn nhiên. Chút ồn ào bất chợt. Và nó cũng như dòng sông kia, chứ chảy thấm dần đến sâu thẳm một điều gì đó, một không gian nào đó đang cư trú sau từng thớ xanh non khoác lên cái mảnh mai của những góc phố nhỏ dăng đầy hoài niệm. Trời mưa nhưng vẫn không làm vắng đi cái âm thanh vốn đã quá đỗi quen thuộc nơi những quán cà phê cóc vỉa hè. Có chăng là vắng đi những khoảng trống chỗ ngồi ngày rực rỡ nắng, một cái vắng không tên không tuổi nhưng lại thích mang ta đi len lỏi trong thế giới của cuộc biến thiên ẩn dật. Ta dường như chẳng có gì trong cơn mưa thao thiết, bởi vì những khoảng cách đã nhòa tan đến từng ý nghĩ mà vun lên đôi ba cơn trái gió trở trời.
Đôi khi bất chợt lại nghĩ ngợi một chút gì đó giữa cuộc đời, mà cũng chẳng cần gì phải nghĩ đến những điều quá to tát, chỉ ước sao mình có thể thực hiện được những điều nho nhỏ mà mình đã nghĩ đến. Như trong cơn mưa này của Huế, chỉ cần tự làm mình mong manh một chút, sẽ thấy bầu trời như đang ở trong một vòng xoay ngũ sắc, mơn man mình bằng thứ si mê có thật, bằng thứ ngốc nghếch chân thành ươn ướt trên những đôi vai nhỏ nhắn như đang trẩy gánh đường xa với hành trang là muôn giọt nhớ. Cứ mưa đi cho Huế được xanh, cho Huế mỗi ngày thức dậy lại như một lần trong hơn, một lần trôi mất đi cái cũ kỹ hằn sâu nơi đâu đó quanh những biến động không ngừng của lẽ Người. Có phải vậy không mà mưa Huế là sự đan xen của những ham muốn được - mất u hoài, là giấc triền miên kéo về từ những nẻo đường thênh thênh tối - sáng để cứ dần len lỏi vào mỗi ánh mắt, mỗi tiếng cười, giọng nói nhè nhẹ mà lâng lâng, chậm rãi mà thổn thức. Mưa đã quét qua cuộc lãng du của những bàn tay mỏi, định với lên ngắt một thoáng bâng khuâng mà lại sợ mình cũng biến tan theo tiếng rơi thật gần nhưng lại nghe như là ở đâu đây xa lắm. Có sự hồ hởi đã kịp khăn gói tiễn đưa những tang bồng xa lắm. Và có cả lời nào chưa nói kịp thôi cũng để cơn mưa rỉ rả niềm lênh đênh bên giấc khuya của những biển đời trôi nổi.
Cho một cuộc chia tay nào đó ư? Cuộc đời con người vốn dĩ là những cuộc chia tay không hề ngừng nghỉ. Có những cuộc chia tay như những sớm mù sương dọc đường vào Thành Nội, cứ long lanh và mờ ảo. Có những cuộc chia tay ào đến ào đi như một giấc cuồng giông ngày hạ, cứ thảng thốt vội vàng mà ngập mình kinh sợ. Lại có những cuộc chia tay mà lòng trĩu nặng, như những cơn mưa ngày ngập tràn trong sắc mây đen kịt, cảm giác cứ như liên tục bị những bàn tay vô hình ấn lên lồng ngực. Và có những cuộc chia tay để lòng thêm thanh thản, để bước tiếp những nẻo đường đang chờ ta đến và xẻ chia. Cơn mưa là một ví dụ cho mảnh đất này về những ngày ta đang sống. Ghét đó nhưng cũng bịn rịn ta đến từng phút giây khi nào ta còn nhớ được.
Vậy là Huế đã sống trong cơn mưa, trong nỗi co ro bất chợt của một áng mây chiều rung nghiêng về phía núi. Chẳng còn là ta nữa trong cơn lất phất ngổn ngang gam trời lồ lộ. Có thứ men rượu nào đủ say như men mưa Huế. Có điều rượu chỉ làm ta say trong cơn vật vã bất chợt của những ám ảnh rơi tuột bất cứ khi nào còn mưa Huế thì mãi làm ta say trong suốt cuộc tìm kiếm long lanh những gì đã lỡ quên của cả một đời người.
L.T.Q
(SDB11/12-13)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.