Mẹ - nguồn tình cảm vô tận

17:04 29/12/2008
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)


Mẹ là nguồn tình cảm vô tận; là nguồn cảm xúc dồi dào thơ ca. ca dao của dân tộc ta ví “nghĩa mẹ như nước trong nguồn” là rất đúng! Trên thế gian, ai mà chẳng có một người mẹ của riêng mình. Cũng như bao người mẹ Việt với phẩm chất cao đẹp “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, mẹ của Văn Lợi còn là mẹ của nhà thơ. Có lẽ vì thế mà mẹ có thêm niềm hạnh phúc được người con thi sĩ làm thơ ca ngợi cuộc đời mình, nói thay mình bằng thơ những điều mình không muốn nói.
Nhà thơ Tố Hữu có một câu thơ rất hay nói về đức tính của những người mẹ Việt “Sớm chiều gánh nặng, nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng, biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”.

“Mẹ!” của Văn Lợi là một tập thơ dành riêng cho người mẹ đã sinh thành ra anh, gồm tất cả 21 bài; có bài viết khi mẹ còn sống, có bài viết sau khi mẹ đã qua đời. Ngoài phần thơ của tác giả, còn có 3 bài bình và một ca khúc của các nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhạc sĩ: Ngô Minh, Lý Hoài Xuân, Văn Tăng, Quách Mộng Lân. Ngay trong lời tâm sự ở đầu tập thơ, nhà thơ Văn Lợi viết: “Quả tình tôi không có chủ đích là viết và in một tập thơ riêng cho mẹ mình. Những ngày bà còn sống tôi viết ra những cảm xúc, những ngẫm suy về người mẹ của mình bằng những dòng thơ để tỏ niềm kính yêu với mẹ...Sau ngày bà mất, nỗi trống vắng trong cõi lòng mình càng lớn, và tôi lại lấy thơ, một khả năng may mắn trời phú cho mình để thốt lên nỗi xót đau, cũng là để một lần nữa tạ lỗi với mẹ, tạ ơn với mọi người đã chia sẻ nỗi niềm với bà những ngày ốm đau và sau khi tạ thế...”.
Tuy vậy, qua tập thơ, chúng ta càng hiểu thêm chân dung và những chuyện riêng cuộc đời của mẹ anh, hiểu thêm tình cảm đặc biệt sâu sắc của anh đối với mẹ.
Đây là vùng đất nơi mẹ anh sinh ra:
                        Nơi sinh ra mẹ, đất Phù Kinh
                        Núi tựa Rồng bay, cảnh hữu tình
                        Non nước trời mây man mác ấy
                        Lắng vào đời mẹ lẽ nhân sinh”
                                                            (Lòng mẹ)
Nối buộc với mảnh đất nơi mẹ sinh ra, tác giả có những kỉ niệm tuổi thơ thật khó quên:
                        Mỗi năm theo mẹ đi về
                        Tình quê thấu suốt mọi bề khúc nôi”
                                                            (Tình quê – Tình mẹ)
Anh nhớ lại “Thuở mẹ dắt con hăm hở đến trường... Mẹ sợ con đi về lạc lối”. Những ai đã viết Văn Lợi là con mồ côi cha từ nhỏ, khi đọc những câu thơ sau không thể không xúc động:
                        Mẹ tôi từ thuở ba hai
                        Đã thành quả phụ, trĩu vai gánh gồng
                        Nuôi con trọn đạo thờ chồng
                        Để con đừng thấy thiếu vòng tay cha”
                                                           
              (Mẹ tôi)
Người mẹ ấy không chỉ “trọn đạo thờ chồng”  mà còn rất nặng nghĩa với tổ tông thân quyến:
                        Phận gái theo chồng, biền biệt quê
                        Day dứt tâm can mỗi độ về
                        Khói hương, mộ ngoại ai chăm chút
                        Lòng mẹ khôn chừng nguôn tái tê”
                                                                 (Lòng mẹ)
Quả như Văn Lợi nói: “Cuộc đời mẹ như cây tre trăm đốt – mỗi đốt tròn săn mỗi gánh đường đời”, “mẹ nuôi con bằng cuộc đời của mẹ, trăm mối cưu mang – một mối đời con”. Hình ảnh mẹ hiện lên trong thơ anh thật hồn nhiên, nhân hậu:
                        Mẹ tôi cười tiếng rất giòn
                        Tiếng cười khiến cả cháu con cùng cười”
                                                                         (Mẹ tôi)
                        Mẹ tôi thành cố, thành bà
                        Vẫn chăm cháu chắt như là chăm con”
                                                                      (Mẹ tôi)
Đó là một người mẹ hay cả lo, mặc dù con đã lớn mà vẫn lo cho con “như thuở còn chơi trốn tìm”, luôn luôn dạy dỗ con những điều hay lẽ phải:
                        Mẹ khuyên đi đứng giữ gìn
                        Nói năng, ăn ở biết mình, biết ai”
                                                             (Mẹ tôi)
                        Mẹ không ước sự sang giàu
                        Chỉ mong con nhớ nơi nào sinh con”
                                                            (Tình quê – tình mẹ)
Hy sinh, quên mình vì con vì cháu cho đến phút cuối đời trong lúc ốm đau:
                        Ước trời cho sớm về theo ngoại
                        Ốm đau nằm mãi khổ con thôi!”
                                                            (Lòng mẹ)
Sống giữa tình thương bao la, trìu mến của một người mẹ như vậy nên nhà thơ hết sức khổ đau khi trên cõi đời mẹ không còn nữa:
                        Mẹ nằm xuống, đất trời thương thượng thọ
                        Cây đầm đìa nước, gió tê tê”
                                                            (Cảm tạ)
Anh xót xa kêu lên:
                        Mẹ ơi! Khi mẹ không còn
                        Thì con mới rõ núi mòn một bên
                        Thì con mới hiểu đất thiêng
                        Thì con mới thấy nặng niềm tâm tư”
                                                            (Khi mẹ không còn)
Hình bóng mẹ vẫn đi về trong giấc mơ của anh:
                        Mẹ ơi! Trong giấc chiêm bao
                        Vẫn lời mẹ ngọt thấm vào lòng con
                        Dẫu đi khắp nước cùng non
                        Đá mềm chân cứng, con còn: Mẹ ơi!”
                                                                     (Mẹ ơi!)
Văn Lợi rất nhiều lần thầm gọi mẹ trong mơ và trong thơ. Anh tạ ơn mẹ bằng thơ, “nghĩ về mẹ”, anh “nghĩ về hạnh phúc!”, bởi: Mẹ ra đi nhưng đã để lại cho cháu con cây Đức ở đời; mẹ luôn tồn tại trong tâm hồn, máu thịt, hình hài cháu con.
Văn Lợi viết về mẹ của anh mà như viết về mẹ của mỗi chúng ta. Mẹ trong thơ anh chân thực, đầy tính nhân văn. Phải chăng trong mẹ của anh có một phần mẹ của mỗi chúng ta, và trong mẹ của mỗi chúng ta có một phần mẹ của anh? Cảm ơn anh đã nói thay chúng ta những điều về mẹ bằng tình cảm thật cao – dày – cảm động. Tập thơ “Mẹ!” của anh vì thế không chỉ là tập thơ dành tặng riêng cho mẹ của nhà thơ!
            L.H.X

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.