BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
Thật ra, đây cũng chính là tâm nguyện phát xuất từ tấm lòng yêu nước của chàng trai Nam bộ đất Đồng Nai Lý Văn Sâm. Ông sinh ngày 17/2/1921. Mùa xuân Đinh Dậu này ông tròn 96 tuổi. Lý Văn Sâm mất ngày 14/9/2000 tại nhà riêng ở quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Quê nội của ông ở làng Bình Long, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai (nay là xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Quê ngoại ở ấp Ông Lình, làng Tân Nhuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa cũ (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
Tôi biết nhà văn Lý Văn Sâm qua tác phẩm Kòn Trô. Một truyện ngắn đường rừng hay, độc đáo đặc trưng Nam bộ với lối kể chuyện giản dị, duyên dáng, hấp dẫn và thế là Kòn Trô đã lôi cuốn tôi đi tìm tác giả. Năm ấy tôi 26 tuổi. Tôi đã gặp ông. Kín đáo. Chỉ đứng nhìn. Không tiếp cận. Đó là một người đàn ông nhỏ nhắn, gầy, gương mặt có phần khắc khổ. Thoáng nhìn thấy nghiêm nghị nhưng sau đó thì hiền lành, đằm thắm, chân chất của người Nam bộ. Những ngày tiếp theo và sau đó nữa Kòn Trô đã dẫn dắt tôi say sưa đến với văn chương của Lý Văn Sâm qua vùng đất và con người Đồng Nai của miền Đông Nam bộ. Đây là một vùng đất mang sắc thái văn học đặc biệt của nền văn học Việt Nam mà Đồng Nai là nơi đã sản sinh nhiều nhà văn, nhà thơ tài hoa. Đúng như nhà thơ Phạm Sỹ Sáu nhận xét, Lý Văn Sâm sinh ra trên vùng đất địa linh nhân kiệt, chỉ một khúc sông Đồng Nai thôi mà đã sinh ra 4 bậc thi nhân lẫy lừng và hào sảng. Một thi tướng Huỳnh Văn Nghệ chọc nước khuấy trời miền Đông một thuở, một nhà văn kể chuyện đường rừng Lý Văn Sâm, một cây viết cần cù, một nhà quay phim đầy trách nhiệm Hoàng Văn Bổn và một nhà văn đi giữa hai làn nước đục trong với những tác phẩm còn mãi với thời gian Bình Nguyên Lộc.
Sinh ra và lớn lên ở Đồng Nai, Lý Văn Sâm có đủ điều kiện hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hóa và đời sống của người Đồng Nai; từ đó ông đã có những trang viết xuất sắc đậm tình quê hương. Đồng Nai chính là không gian nghệ thuật đã giúp ông có chỗ đứng vững chắc trên văn đàn với những sáng tác văn học có giá trị tiêu biểu, mở đầu cho nền văn học miền Nam. Kòn Trô là truyện ngắn đầu tay rất nổi tiếng của Lý Văn Sâm. Một chi tiết khá thú vị, theo tâm sự của ông với bạn văn, Kòn Trô là truyện ngắn ông tâm đắc nhất ra đời trong hoàn cảnh lúc ông đang làm việc ở lò than do gia đình tạo dựng. Kòn Trô chính là mình và Thể Phụng là một cô gái xinh đẹp, trên đường đi ngắm cảnh thác Trị An thì xe ô tô bị hư. Cô gái đã nhờ ông tìm người sửa chữa, nghỉ nhờ và ăn cơm tại nhà ông. Từ đó nhà văn tưởng tượng, hư cấu và viết thành truyện. Hai nhân vật Thể Phụng và Kòn Trô một thời đã hấp dẫn trí tưởng tượng trong tôi về cảnh núi rừng thâm u, ma mị của Đồng Nai, những mảng mây trời bàng bạc màu khói hương ôm ấp một tình yêu lãng mạn…
Qua tìm hiểu tôi được biết, ngày ấy xóm Cây Chàm gần nhà tôi ở có nhà văn Lương Văn Lựu, một trong những cây bút trẻ đã cùng Lý Văn Sâm, Huỳnh Sanh và một vài người nữa hình thành Văn đàn Sông Phố. Mục đích của nhóm là bán những cuốn sách có nội dung tốt, tổ chức giao lưu với bạn đọc, kêu gọi các bạn trẻ đến với văn học. Chính từ văn đàn này, Lý Văn Sâm bắt đầu sáng tác. Tác phẩm được đăng báo đầu tiên của ông là Cây Nhị Sông Phố, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. (Truyện ban đầu có tên là Cây Đàn Sông Phố nhưng nhà văn Vũ Bằng khi biên tập đã chỉnh lại là Cây Nhị Sông Phố). Sau truyện ngắn này Lý Văn Sâm trở thành cây bút quen thuộc của Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội, Sài Gòn và một số báo khác… Nhà văn Lý Văn Sâm sáng tác khá sớm (khoảng năm 1936 - 1939) với nhiều thể loại khác nhau. Truyện ngắn (42 truyện), truyện vừa (17 truyện), tuồng cải lương (1 tuồng), kịch (11 vở). Về thể loại ký, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai đã tuyển in trong các tập Bến Xuân (1980), Những bức chân dung (1983), Ngàn Sau Sông Dịch (1988); Tạp văn (20 bài); Thơ (hiện còn 3 bài).
Văn chương của Lý Văn Sâm ngày ấy đã dẫn dắt tôi, lôi cuốn tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và tôi đã lắng người “ngưỡng mộ” ông. Ông là một nhà văn có cá tính độc đáo, sáng tạo, tinh tường trong cách miêu tả và xây dựng nhân vật. Với tôi, Lý Văn Sâm là một nhà văn tài hoa của đất Đồng Nai. Ông đã được truy tặng Giải Thưởng Nhà Nước về Văn Học Nghệ Thuật năm 2006. Có một chi tiết đã làm cho tôi lắng lòng nể phục ông đó là đức tính khiêm tốn. Nhà văn Bùi Quang Tú, con trai của nhà văn Bùi Hiển thổ lộ: “Ông già rất khiêm tốn. Khiêm tốn tới mức không nhận mình là nhà văn. Cuối đời, trong tấm danh thiếp ông chỉ ghi: Lý Văn Sâm. Đảng viên. Hưu trí”.
Đồng Nai là quê hương thứ hai của tôi sau Huế. Với không gian hiền hòa, con người chân chất, hiền lành, tâm hồn đậm chất nghệ sĩ, Đồng Nai đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi. Tôi ngưỡng mộ nhà văn Lý Văn Sâm. Rất nhớ những ngày tháng đầu tôi lạ lẫm đến với Đồng Nai và nhân vật Kòn Trô là người đã mang tôi đến gần với văn chương của xứ Đồng Nai.
B.K.C
(SHSDB24/03-2017)
LÊ ĐÌNH SƠN
Lý Bạch (701-762), nhà thơ lớn đời Đường. Đề tài trong thơ Lý Bạch rất phong phú: thiên nhiên, tâm trạng, tình bạn, tình yêu...
VŨ QUỐC VĂN
Gặp rồi quen, thành bạn vong niên với anh từ lúc nào tôi chẳng nhớ. Chiến tranh kết thúc, anh dấn thân hành nghiệp viết trả nợ đời. Còn tôi, về lại Hải Phòng nơi đất mẹ sinh ra.
Phóng viên TCSH: Hình như từ trước có một sự gợi ý của ai chăng, công trình anh đang làm: Một thế kỷ thơ Việt?
HỒ THẾ HÀ
(Đọc Mỗi lần đọc lại một lần mới của Dương Phước Thu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2021)
YÊN CHÂU
PHONG LÊ
Nhân 50 năm ngày mất nhà văn Thạch Lam (1942-1992)
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Chưa có ai thống kê và so sánh, nhưng hẳn là trong công cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc ta, không có đề tài nào được sách báo nói đến nhiều như cuộc chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh.
YẾN THANH
Có nhiều thứ
Không thể chùi được bằng nước mắt
Như ánh sáng kia trên bầu trời hoàng hôn và bình minh của biển
Như sự nín lặng bất lực của cát.
Như bàn tay bên cạnh một bàn tay
(Bạch Diệp)
VĂN TOÀN - TUẤN VŨ
Trong cuộc đời đầy sôi nổi của mình, nhất là những tháng năm làm quan, Giá Viên Phạm Phú Thứ từng đến nhiều địa phương trong nước và nhiều nước trên thế giới.
LÊ THỊ HƯỜNG
Nói một cách kinh điển, ở tiểu thuyết, cái kết được xem là “sức mạnh của cú đấm nghệ thuật”(D. Furmanov).
PHONG LÊ
Quang Dũng1 - Dũng mà rất hiền, rất lành; tôi muốn dùng đến cả chữ lành để nói về ông mới thật sự đủ nghĩa và thỏa lòng.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Dám ngoái đầu nhìn lại” - Tập Phê bình văn học của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Hội Nhà văn, 2021)
NGÔ THỜI ĐÔN
Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)
HỒ THẾ HÀ
Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).
TÔN THẤT DUNG
Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
LÊ THỊ ĐỨC HẠNH
Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.
NGUYỄN THANH TRUYỀN
Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.