Lý Văn Sâm và khoảnh khắc

10:04 11/05/2017

BÙI KIM CHI

“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).

Thật ra, đây cũng chính là tâm nguyện phát xuất từ tấm lòng yêu nước của chàng trai Nam bộ đất Đồng Nai Lý Văn Sâm. Ông sinh ngày 17/2/1921. Mùa xuân Đinh Dậu này ông tròn 96 tuổi. Lý Văn Sâm mất ngày 14/9/2000 tại nhà riêng ở quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Quê nội của ông ở làng Bình Long, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai (nay là xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Quê ngoại ở ấp Ông Lình, làng Tân Nhuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa cũ (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

Tôi biết nhà văn Lý Văn Sâm qua tác phẩm Kòn Trô. Một truyện ngắn đường rừng hay, độc đáo đặc trưng Nam bộ với lối kể chuyện giản dị, duyên dáng, hấp dẫn và thế là Kòn Trô đã lôi cuốn tôi đi tìm tác giả. Năm ấy tôi 26 tuổi. Tôi đã gặp ông. Kín đáo. Chỉ đứng nhìn. Không tiếp cận. Đó là một người đàn ông nhỏ nhắn, gầy, gương mặt có phần khắc khổ. Thoáng nhìn thấy nghiêm nghị nhưng sau đó thì hiền lành, đằm thắm, chân chất của người Nam bộ. Những ngày tiếp theo và sau đó nữa Kòn Trô đã dẫn dắt tôi say sưa đến với văn chương của Lý Văn Sâm qua vùng đất và con người Đồng Nai của miền Đông Nam bộ. Đây là một vùng đất mang sắc thái văn học đặc biệt của nền văn học Việt Nam mà Đồng Nai là nơi đã sản sinh nhiều nhà văn, nhà thơ tài hoa. Đúng như nhà thơ Phạm Sỹ Sáu nhận xét, Lý Văn Sâm sinh ra trên vùng đất địa linh nhân kiệt, chỉ một khúc sông Đồng Nai thôi mà đã sinh ra 4 bậc thi nhân lẫy lừng và hào sảng. Một thi tướng Huỳnh Văn Nghệ chọc nước khuấy trời miền Đông một thuở, một nhà văn kể chuyện đường rừng Lý Văn Sâm, một cây viết cần cù, một nhà quay phim đầy trách nhiệm Hoàng Văn Bổn và một nhà văn đi giữa hai làn nước đục trong với những tác phẩm còn mãi với thời gian Bình Nguyên Lộc.

Sinh ra và lớn lên ở Đồng Nai, Lý Văn Sâm có đủ điều kiện hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hóa và đời sống của người Đồng Nai; từ đó ông đã có những trang viết xuất sắc đậm tình quê hương. Đồng Nai chính là không gian nghệ thuật đã giúp ông có chỗ đứng vững chắc trên văn đàn với những sáng tác văn học có giá trị tiêu biểu, mở đầu cho nền văn học miền Nam. Kòn Trô là truyện ngắn đầu tay rất nổi tiếng của Lý Văn Sâm. Một chi tiết khá thú vị, theo tâm sự của ông với bạn văn, Kòn Trô là truyện ngắn ông tâm đắc nhất ra đời trong hoàn cảnh lúc ông đang làm việc ở lò than do gia đình tạo dựng. Kòn Trô chính là mình và Thể Phụng là một cô gái xinh đẹp, trên đường đi ngắm cảnh thác Trị An thì xe ô tô bị hư. Cô gái đã nhờ ông tìm người sửa chữa, nghỉ nhờ và ăn cơm tại nhà ông. Từ đó nhà văn tưởng tượng, hư cấu và viết thành truyện. Hai nhân vật Thể Phụng và Kòn Trô một thời đã hấp dẫn trí tưởng tượng trong tôi về cảnh núi rừng thâm u, ma mị của Đồng Nai, những mảng mây trời bàng bạc màu khói hương ôm ấp một tình yêu lãng mạn…

Qua tìm hiểu tôi được biết, ngày ấy xóm Cây Chàm gần nhà tôi ở có nhà văn Lương Văn Lựu, một trong những cây bút trẻ đã cùng Lý Văn Sâm, Huỳnh Sanh và một vài người nữa hình thành Văn đàn Sông Phố. Mục đích của nhóm là bán những cuốn sách có nội dung tốt, tổ chức giao lưu với bạn đọc, kêu gọi các bạn trẻ đến với văn học. Chính từ văn đàn này, Lý Văn Sâm bắt đầu sáng tác. Tác phẩm được đăng báo đầu tiên của ông là Cây Nhị Sông Phố, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. (Truyện ban đầu có tên là Cây Đàn Sông Phố nhưng nhà văn Vũ Bằng khi biên tập đã chỉnh lại là Cây Nhị Sông Phố). Sau truyện ngắn này Lý Văn Sâm trở thành cây bút quen thuộc của Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội, Sài Gòn và một số báo khác… Nhà văn Lý Văn Sâm sáng tác khá sớm (khoảng năm 1936 - 1939) với nhiều thể loại khác nhau. Truyện ngắn (42 truyện), truyện vừa (17 truyện), tuồng cải lương (1 tuồng), kịch (11 vở). Về thể loại ký, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai đã tuyển in trong các tập Bến Xuân (1980), Những bức chân dung (1983), Ngàn Sau Sông Dịch (1988); Tạp văn (20 bài); Thơ (hiện còn 3 bài).

Văn chương của Lý Văn Sâm ngày ấy đã dẫn dắt tôi, lôi cuốn tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và tôi đã lắng người “ngưỡng mộ” ông. Ông là một nhà văn có cá tính độc đáo, sáng tạo, tinh tường trong cách miêu tả và xây dựng nhân vật. Với tôi, Lý Văn Sâm là một nhà văn tài hoa của đất Đồng Nai. Ông đã được truy tặng Giải Thưởng Nhà Nước về Văn Học Nghệ Thuật năm 2006. Có một chi tiết đã làm cho tôi lắng lòng nể phục ông đó là đức tính khiêm tốn. Nhà văn Bùi Quang Tú, con trai của nhà văn Bùi Hiển thổ lộ: “Ông già rất khiêm tốn. Khiêm tốn tới mức không nhận mình là nhà văn. Cuối đời, trong tấm danh thiếp ông chỉ ghi: Lý Văn Sâm. Đảng viên. Hưu trí”.

Đồng Nai là quê hương thứ hai của tôi sau Huế. Với không gian hiền hòa, con người chân chất, hiền lành, tâm hồn đậm chất nghệ sĩ, Đồng Nai đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi. Tôi ngưỡng mộ nhà văn Lý Văn Sâm. Rất nhớ những ngày tháng đầu tôi lạ lẫm đến với Đồng Nai và nhân vật Kòn Trô là người đã mang tôi đến gần với văn chương của xứ Đồng Nai.

B.K.C
(SHSDB24/03-2017)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.