Lương An không chỉ có "Cô lái đò"

16:26 08/09/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong câu chuyện vui của giới văn nghệ sĩ trước những công việc có tính chất tổng kết, phân loại đội ngũ, một số người được anh em phong tặng danh hiệu “nhà-thơ-một-bài”, “nhạc-sĩ-một-bài”...

Danh hiệu không hàm ý khen chê, vì văn chương “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”; và như Bà Huyện Thanh Quan, chỉ cần 8 câu thơ viết về Đèo Ngang cũng đủ lưu danh hậu thế. Tất nhiên cũng có người tự ái khi bị xếp vào loại “độc đáo” này, không muốn bỏ rơi những đứa con tinh thần khác của mình và vẫn thích đứng vào hàng ngũ những người có nhiều tác phẩm.
Nhà thơ Lương An thì chỉ cười mỗi khi “bị” đàn em gọi là “nhà-thơ-một-bài”. Chính ông cũng tự thừa nhận: “Tôi thấy bề dày về sáng tác và nghiên cứu của mình chẳng là bao, nên: Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Thôi thì xin phụ tấm lòng với ai.” (“Nhà văn Việt hiện đại”, NXB Hội Nhà văn, trang 36) Ở cùng ông gần chục năm trong cơ quan Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, tôi cũng tin thế vì các tập tuyển thơ chỉ thấy in bài thơ “Cô lái đò”:
Đò em lên xuống Ba Lòng
Chở người cán bộ qua vùng chiến khu...
...Ai về bến Trấm thì lên
Về cho sớm sớm, mưa đêm khó chèo.
Cho mãi đến nay, trong dịp gặp lại, khi ông từ T.P. Hồ Chí Minh mang bản thảo “Thơ Mai Am - Huệ Phố” ra làm việc với NXB Thuận Hoá, tôi mới biết mình (và có lẽ nhiều người nữa) đã nhầm. Ông sinh năm 1920, vị chi nay đã 83 tuổi. Thân hình ông vốn cao gầy, nay càng còm nhom, đôi mắt sâu hoắm và sức đã xuống trông thấy. Ông Nguyễn Khôn, em trai ông - một cán bộ ngoại giao về hưu, nay tham gia Hội Pháp ngữ ở Huế - vừa vào T.P. Hồ Chí Minh tháp tùng ông ra đây. Dư âm “Festival Huế 2002” tiếp nối với những hoạt động chuẩn bị bầu cử Quốc Hội khiến thành phố náo nhiệt khác thường, nhưng căn nhà thấp bé của ông Khôn ẩn dưới bóng cây trong ngõ nhỏ phố Lý Thường Kiệt thì yên tĩnh và mát mẻ.
Thoạt đầu, chưa phải chuyện thơ. Nhân nhắc đến việc ông sẽ về quê lo “chuyện cuối đời”, nhà thơ say sưa nói về dòng sông Thạch Hãn, nơi có con kênh đưa nước ngọt vào làng Tài Lương quê ông (xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), có “bến Trấm” cô lái đò năm xưa xuôi ngược, con sông “trong sạch” đến mức Bảng Nhãn Võ Duy Thanh thời Tự Đức đi ngang qua đã phong là “Liêm tuyền Nhượng thuỷ”. Còn Dương Văn An trong “Ô châu cận lục” đã có câu: “Trai dũng cảm Tài Lương”... Thân phụ của ông đỗ Tú tài thời vua Duy Tân, từng là hội viên “Hội Duy Tân”...Tuy vậy, ông tiếp xúc với cách mạng lần đầu thông qua người bạn đồng hương Hồng Chương. Cả hai, sau khi đậu “primaire” ở Quảng Trị, vào Huế học trung học, những ngày hè về quê gặp nhau, mang theo cả không khí báo chí sôi nổi ở Huế thời đó, cũng ra một “tờ báo” viết tay bài vở đả kích bọn nhà giàu cho vay nặng lãi, tổng lý bài bạc và cả những thanh niên mất chí hướng...Ra được 2 số thì tan, sau khi bị quan phủ Triệu Phong bắt giam. Quan lấy cớ dám tụ tập lập đội bóng không đăng ký, lại thắng đội Ngô Xá “chính danh” của phủ với tỷ số 2-0, rồi còn đăng tin công khai lên báo “Tràng An” ở Huế! Quan giam cho muỗi đốt một đêm, sáng ra phạt không biên lai mỗi đứa một số tiền gần bằng tiền ăn một tháng đủ để nhớ đời, rồi thả...
Ông Lương An thích thú kể “sự cố” đầu tiên trong đời học sinh, cười thoải mái, chẳng để ý đến cốc cà phê sữa mà người em đưa ra đã nguội, càng không quan tâm gì đến bộ mặt dài hốc hác của mình càng lộ xương xẩu ra khi cười. Phải! Trước mặt tôi là một ông già tám mươi hom hem, còn ông vẫn đương đuổi theo hình bóng những năm tháng thanh xuân đầy những kỷ niệm mộng mơ của mình trên đất thần kinh. Nhưng lúc bấy giờ, gặp khi kinh tế khủng hoảng, gia đình chàng trai Quảng Trị không còn sức trả học phí cao cho chàng và nuôi ba cậu em còn đi học nữa, khuyên con trai trưởng đi kiếm việc làm. Có được chút học vấn, nhưng người cao gầy không đạt số “pi-nhê” quy định của Tây, Lương An bèn dự cuộc thi tuyển công chức bên Nam triều và năm 1941, được bổ làm “Thừa phái” - một chân thư ký hàng ngày vào sổ sách công văn ở Bộ Lại. Chính là trong những năm này, nhờ được sống ở vùng đất hội tụ nhiều nhà thơ tài danh của đất nước, cũng do công việc rỗi rãi, Lương An đã công bố những bài thơ đầu tiên trên báo “Tràng An” là tờ báo ông thường xuyên cộng tác với chức danh là “phóng viên thể thao”! Còn thơ, thời ấy đương nhiên là thơ tình lãng mạn.
“Thuở trước đất trời cũng luyến nhau/ Uyên ương dồn tự mấy tinh cầu/ Ví không ngọn lửa ân tình ấy/ Thì như những vì sao tắt đã lâu...”
Bài thơ “Thuở trước” sau này đã được ông anh con bác của ông là nhạc sĩ Nguyễn Viêm phổ nhạc. Đã hơn sáu chục năm qua, ông không còn thuộc hết các tác phẩm của mình, chỉ nhớ từng đoạn, gần đây mới được giáo sư Trần Thanh Đạm tình cờ sao chép từ một người bạn cũ ở Huế, gởi cho một bài, thiếu tên đầu đề và đoạn cuối:
“Xin mời nương nương/ Cùng nâng cao chén/ Trời đã lên sương/ Vắng người trên bến/ Ngón đàn hôm nay/ Sao cho huyền ảo/ Ngày mai chia tay/ Trông vời dáng áo/ Say đi nương nương/ Đây làn gối dịu/ Gió thoảng mùi hương/ Bờ run lệ liễu/ Sao nhạt mây mờ/ Thuyền già ân ái/ Điệu hát ngày xưa? / Đâu còn nhớ mãi/ Say đi nương nương/ Để rồi quên tiếp/ Một phút uyên ương/ Ngàn năm chia biệt!”
Đó là bài thơ chàng thừa phái trẻ tuổi tặng những người đẹp sau đêm ca Huế trên sông Hương. Bài “Xuân ở quê nhà” ông viết tặng người em trai, mặc dù cả hai anh em cùng nhắc nhớ lại, vẫn không đầy đủ:
Xuân ở quê nhà như kết hoa/ Đường quê...rộn tiếng người qua/... mành sương mỏng vương chân ấm/ Cành lá điềm nhiên đợi nắng nhoà/ Có những chàng trai dáng rất quen/ Theo dăm cô gái lễ trên đền/ Ngày Xuân đò cũng qua mau chuyến/ Giữa đám đông người bước bước lên/ Cùng nhịp mùa lên chim say mê/ Bay theo hướng gió cũng tìm quê/ Hôm nay có lẽ nơi xa thẳm/ Bạn cũ...chim nhẹ gót về...”
Chàng thừa phái sính làm thơ lãng mạn có lẽ còn vì lúc đó tình cờ gặp được “người đẹp” quê làng Mai Động (Hà Nội) theo bố vào làm nhà in ở Huế. Chẳng biết là nàng yêu thơ tìm đến chàng, hay nhờ gặp nàng mà hồn thơ chàng thêm say đắm; chỉ biết là từ năm 1943 đến nay, đó là người bạn đời chung thuỷ duy nhất của ông.
Thời đó, Lương An còn viết vở kịch thơ “Huyền Trân Công chúa”:
“...Gió hiu hắt lọt ru mành mát lạnh/ Trăng thượng tuần mờ dãi mái hoàng cung...”
Nhà thơ lim dim ngân nga hai câu thơ đầy vẻ bi tráng rồi nói với giọng điệu tiếc nuối: “Những bài thơ sáng tác trước 1945, tìm báo “Trường An” là có thể thấy, nhưng bản thảo vở kịch thơ chưa in được thì đã bị cháy trong kháng chiến chống Pháp rồi!...”
Chỉ kể từng ấy đã thấy danh hiệu “nhà-thơ-một-bài” đặt cho ông là oan uổng. Ngoài tập thơ “Nắng Hiền Lương” (NXB Văn học - 1962), ông còn truyện thơ gần 2000 câu “Giọt máu chung” viết về Tây Nguyên chưa xuất bản. Ông thì chẳng cần “thanh minh”, kể cả khi một bạn văn tặng thêm cho ông danh hiệu “nhà-thơ-thừa-phái”, có ý nhắc rằng lý lịch của ông có đoạn không vẻ vang gì! Ông chỉ cười, vì chính nhờ công việc theo dõi ghi chép các công văn của Bộ Lại mà ông có thể cung cấp cho đồng chí Hồng Chương những tin tức có lợi cho phong trào cách mạng. Cho đến sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Hồng Chương ra tù, đêm về ở với ông tại Trại công chức (gần cửa Đông Ba), ngoài phần công tác do tổ Việt Minh Bộ Nội vụ giao, còn đề nghị ông kiếm cách chép lại bức “Thư gửi đồng bào”(*) của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, bản bằng chữ Hán để gởi đến một số gia đình thuộc tầng lớp trên, công chức cao, nhân sĩ. Rất may là vừa lúc thân sinh ông từ Quảng Trị vào thăm con đã sốt sắng giúp cho. Hai bố con đêm đêm hì hụi lồng giấy than với giấy pơ-luya, viết hết tệp này đến tệp khác. Những dòng chữ, khi như truyền nỗi uất ức vào tâm can: “Do thử ngô dân thân ngâm ư song trùng áp bức chi hạ, ký vi Pháp tặc chi mã ngưu, hựu vị Nhật khấu chi nô lệ”; lúc như rọi sáng con đường: “Như kim giải phóng cơ hội dĩ chí, Pháp quốc bản thân ký bất năng tự cứu, cánh bất năng viện trợ kỳ thống trị ngã quốc chi Pháp nhân...”(**) Đã hơn nửa thế kỷ qua, ông chẳng còn nhớ được chính xác, nhưng giọng “cụ đồ” trầm bổng vẫn gợi không khí thiêng liêng thời cả dân tộc theo lời nhà ái quốc vĩ đại cùng đứng lên lật trang lịch sử. Còn “nhà thơ thừa phái” Lương An, vì đã hoạt động cách mạng trước ngày Huế khởi nghĩa, nên ngay từ lúc chính quyền mới thành lập, ông đã được chuyển sang công tác tại Uỷ ban Nhân dân Trung Bộ và sau đó, liên tục hoạt động trong các tổ chức văn hóa văn nghệ kháng chiến ở Quảng Trị; từ năm 1954-1972, ông tập kết ra bắc làm báo chuyên nghiệp, Trưởng Ban văn hóa văn nghệ báo “Thống nhất”; năm 1973, Quảng Trị giải phóng, ông về quê đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng ty Thông tin văn hóa tỉnh, cho đến ngày đất nước thống nhất, ông mới có dịp gặp lại Huế trong cương vị lãnh đạo Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Có lẽ ông Lương An không phải là người ham chức quyền, nhưng từ hoàn cảnh xuất thân, ông đã quen với lối sống tuân thủ kỷ cương và như một đứa con ngoan “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, người cán bộ mẫn cán và luôn có uy tín với tổ chức luôn được chọn ngồi ghế lãnh đạo. Hình như đó không phải là môi trường thuận lợi cho hồn thơ bay lượn. (Tất nhiên là cũng có người vừa tài lãnh đạo, vừa sáng tác được nhiều.) Vì thế, sau bài thơ “Cô lái đò” sáng tác bên Khe Su tại chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) năm 1948, ông ít có tác phẩm được người đọc ghi nhớ. Sự đời là vậy, biết làm sao được! Bên này tròn đầy thì bên kia phải vơi, như núi cao với sông sâu và cũng như là chiến công chỉ có thể gặt hái sau những hy sinh.
Trong cuộc đời cán bộ tận tuỵ của mình, ông còn phải chịu nhiều “hy sinh” khác. Năm 1951, thân mẫu của ông qua đời vì đau ốm mà thiếu thuốc men; năm 1952, trong một trận càn, cụ thân sinh của ông đã bị giặc Pháp bắn chết và người con gái duy nhất của cụ bị thương. Cả hai lần, ông đều đang ở chiến khu Ba Lòng, bận công tác nên chẳng về đỡ đần gì được cho gia đình. Còn “người đẹp” làng Mai Động, sau khi sinh hạ cho ông được một tiểu thư năm 1945, do vợ chồng chẳng mấy lúc gần nhau trong cuộc chiến trường kỳ gian khổ, nên ông sớm trở thành người gương mẫu hạn chế tăng dân số gia đình!
Cũng may, sau ngày về hưu, ông nhận ra mình có một “thế mạnh” chưa được khai thác đúng mức: khả năng nghiên cứu và dịch thuật. Đó cũng là niềm vui cuối đời ông. Chưa kể những bài đăng trên báo chí, ông đã cho xuất bản tập nghiên cứu văn học dân gian Bình Trị Thiên “Vè chống Pháp”, tập “Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm” và hôm nay là bản thảo “Thơ Mai Am-Huệ Phố” . Nhìn cuốn sổ tay ghi gần một trăm bài thơ dịch từ chữ Hán của hai “bà chúa” thơ nổi danh ở Huế một thời với những dòng chữ lít nhít con kiến, với nhiều trang giấy nhầu nhĩ hẳn là do dịch giả vật vã nhiều lần tìm chữ, thay vần cho xứng với nguyên bản, rồi ngước nhìn “cụ” Lương An hom hem mắt đã mờ, tai đã lãng, tôi cứ thầm lo, nếu như... Biết là ông dự định đến Nhà Xuất bản Thuận Hoá, tôi liền gọi điện cho đồng chí giám đốc đề nghị giúp đỡ lão nhà thơ phô-tô rồi đánh vi tính tập bản thảo, chứ lỡ có “biến cố” gì thì công phu dịch cả trăm bài thơ tiêu vong vì mấy ai đọc được chính xác những trang chữ lít nhít kia. Tôi cũng dự tính, nếu có được bản thảo sạch sẽ, sẽ đề nghị Quỹ Văn hóa nơi ông Hữu Ngọc giúp tài trợ xuất bản. Vậy mà nửa tháng sau, người em trai của ông cho biết: ông không đến Nhà xuất bản và đã “ôm” bản thảo vào T.P. Hồ Chí Minh vì đôi bài thơ dịch chưa ưng ý, lời giới thiệu chưa hoàn chỉnh!
83 tuổi rồi mà cẩn thận, cầu toàn như ông quả là hiếm! Mà chưa hẳn ông đã già yếu, hoặc là ông “già không đều”. Nghe nói rằng, suốt tháng 6 vừa rồi, chàng “cua-rơ” bị quan phủ bắt giam hồi trẻ ở Triệu Phong sống lại mãnh liệt trong lão nhà thơ Lương An, khiến ông chỉ “ôm” ti-vi xem World Cup mà quên hẳn hai “bà chúa thơ” xứ Huế!
Cầu cho ông mạnh khoẻ để hoàn thành được những dự định của đời mình.
                 Trường An-Huế, Tháng 6-7/2002
                        N.K.P

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

-----------------------------
(*) Sau Hội nghị lần thứ 8 Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Pắc-bó (Cao Bằng), ngày 6/6/1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết đánh đổ Nhật, Pháp, giành độc lập, tự do.
(**) Nguyên bản quốc ngữ hai đoạn trên như sau: “ Vì thế dân ta rên xiết dưới hai tầng áp bức, đã làm ngựa trâu cho quân giặc Pháp, lại làm nô lệ cho quân cướp Nhật...Giờ đây, thời cơ giải phóng đã đến, bản thân nước Pháp cũng không giúp nổi cho bọn Pháp thống trị nước ta...”

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.