Sự phát triển nhanh và mạnh của công nghệ sản xuất, chiếu phim, lưu trữ trong điện ảnh trên nền tảng công nghệ số vừa mang đến cơ hội, song cũng là thách thức cho mỗi nền điện ảnh. Trong bối cảnh đó, điện ảnh Việt Nam cần tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại, đột phá về tư duy làm phim để bắt kịp xu hướng thời đại.
Lạc hậu và tụt hậu
Sáng 10.9, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Cục Điện ảnh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức hội thảo khoa học “Tác động của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 vào lĩnh vực điện ảnh”. Theo nguyên Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh Đỗ Duy Anh: Điện ảnh là một ngành công nghiệp và luôn gắn bó mật thiết với sự phát triển của công nghệ. Nếu công nghiệp thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng, thì công nghiệp điện ảnh cũng phải trải qua ba cuộc cách mạng. Trong đó, Cách mạng Công nghiệp mới 4.0 tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng công nghệ mới trong lĩnh vực điện ảnh. Ở đó, sự phản ánh về hiện thực ảo và hiện thực thật xen lẫn, hòa trộn với nhau trong một bộ phim; việc phát hành và phổ biến một bộ phim vượt ra ngoài khuôn khổ truyền thống là tại các rạp chiếu phim hoặc trên truyền hình; cách thức tiếp cận, hưởng thụ nghệ thuật điện ảnh của khán giả cũng thay đổi, có nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn để thỏa mãn nhu cầu cá nhân ở bất cứ thời gian, địa điểm nào.
Tuy nhiên, khi nền công nghiệp điện ảnh thế giới đã bước sang giai đoạn 4.0 thì điện ảnh Việt Nam vẫn còn khá lúng túng trong áp dụng các công nghệ, kỹ thuật mới. ThS. Nguyễn Lâm Tuấn Anh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho biết: Tính đến hết năm 2018, nước ta có 500 doanh nghiệp được cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh sản xuất phim (thực tế có khoảng 15 - 20 doanh nghiệp đang sản xuất phim chiếu rạp, số còn lại chủ yếu sản xuất các chương trình truyền hình, quảng cáo). Công nghệ sản xuất và chiếu phim lạc hậu và tụt hậu, nhất là trong xu hướng công nghệ sản xuất và phổ biến phim của cả thế giới đã chuyển sang công nghệ số hóa. Tính đến tháng 12.2018, cả nước có 922 phòng chiếu phim. Rạp chiếu phim ở các thành phố lớn, rạp của công ty nước ngoài phát triển ồ ạt, thiếu kiểm soát, chiếm 60% số rạp và chi phối hoạt động chiếu phim tại Việt Nam. Trong khi đó, hệ thống rạp do Nhà nước quản lý tại các tỉnh, thành phố xuống cấp trầm trọng, công nghệ thiết bị chiếu phim lạc hậu, không đáp ứng nhu cầu chiếu phim và thưởng thức của khán giả…
Bên cạnh đó, hầu hết cơ sở vật chất của các cơ sở điện ảnh nhà nước đều được Nhà nước đầu tư 100% kinh phí. Cơ chế đầu tư về cơ bản vẫn là bao cấp, manh mún, phân tán, dàn trải, chồng chéo và không theo một quy hoạch tổng thể, hiệu quả sử dụng trang thiết bị thấp. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ sở kỹ thuật (công nghệ, thiết bị nhập với nhiều quy chuẩn khác nhau) gây lãng phí về khai thác công suất thiết bị. Một số thiết bị máy móc được đầu tư hiện đại ngang với các nước trong khu vực, nhưng đội ngũ chuyên gia lành nghề quá ít, không đáp ứng yêu cầu.
Tạo hành lang phát triển, hội nhập
Xu hướng toàn cầu hóa đã biến thị trường điện ảnh quốc gia trở thành bộ phận không thể tách rời của thị trường điện ảnh quốc tế, đòi hỏi nền điện ảnh các nước nói chung và Việt Nam nói riêng phải chủ động hội nhập toàn diện, tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại và tạo vị thế trên thị trường thế giới bằng bản sắc riêng. Theo ông Đỗ Duy Anh, ngành điện ảnh Việt Nam cần chủ động áp dụng những thành quả, tiến bộ khoa học mà công nghệ mang đến, hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp điện ảnh phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ điện ảnh thế giới. Ở đó, cần xác định những bước đi cụ thể như xây dựng nền tảng dữ liệu số hóa toàn bộ quá trình sản xuất, phát hành và phổ biến phim; xây dựng cơ sở cung cấp dịch vụ kỹ thuật số cho ngành công nghiệp điện ảnh; xây dựng công nghệ điều hành quá trình sản xuất, phát hành, phổ biến phim và bản quyền tác giả…
Cho dù công nghệ số hóa với sức mạnh vượt trội của các mẫu thức trong sản xuất, phát hành và phổ biến phim, thì vai trò của con người, những nhà sáng tạo, tác giả của mỗi bộ phim vẫn là lực lượng nòng cốt mà không công nghệ nào có thể thay thế được. Trong khi đó, ThS. Hoàng Dạ Vũ, Viện Sân khấu - Điện ảnh, Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội nhận định: Thành tựu Cách mạng 4.0 khiến điện ảnh Việt đối diện với nhiều tác động tiêu cực như sự tụt hậu về công nghệ, suy giảm sản xuất kinh doanh, dư thừa lao động trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, mất an ninh an toàn thông tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao... Hiện tại, Việt Nam đã có một số nhà sản xuất, phát hành và phổ biến phim cập nhật được trình độ phát triển của điện ảnh thế giới, song nguồn nhân lực chất lượng cao của điện ảnh Việt Nam còn rất ít và không đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thời kỳ làm phim theo công nghệ hiện đại. Tất cả những bất cập đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải đổi mới cách thức và tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành điện ảnh.
Đề án sửa đổi Luật Điện ảnh đang được xây dựng với yêu cầu tạo hành lang pháp lý để vừa bảo vệ và phát triển điện ảnh dân tộc, vừa tăng cường hội nhập quốc tế, đồng thời bảo đảm các quy định của luật phải mang tính khả thi, ổn định và lâu dài. Theo các chuyên gia, nội dung sửa đổi vừa phải đặt trong thực tiễn phát triển đất nước, vừa phải đặt trong môi trường của Cách mạng 4.0 trong điện ảnh. Để làm được việc đó, trong quá trình sửa đổi Luật, cần quán triệt định hướng: Luật không chỉ tạo hành lang pháp lý để quản lý nội dung mà còn phải tạo hành lang pháp lý để phát triển một nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam trong thời đại công nghệ điện ảnh 4.0.
Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.