Lúng túng chuyển mình

09:41 11/09/2019

Sự phát triển nhanh và mạnh của công nghệ sản xuất, chiếu phim, lưu trữ trong điện ảnh trên nền tảng công nghệ số vừa mang đến cơ hội, song cũng là thách thức cho mỗi nền điện ảnh. Trong bối cảnh đó, điện ảnh Việt Nam cần tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại, đột phá về tư duy làm phim để bắt kịp xu hướng thời đại.

Lạc hậu và tụt hậu

Sáng 10.9, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Cục Điện ảnh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức hội thảo khoa học “Tác động của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 vào lĩnh vực điện ảnh”. Theo nguyên Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh Đỗ Duy Anh: Điện ảnh là một ngành công nghiệp và luôn gắn bó mật thiết với sự phát triển của công nghệ. Nếu công nghiệp thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng, thì công nghiệp điện ảnh cũng phải trải qua ba cuộc cách mạng. Trong đó, Cách mạng Công nghiệp mới 4.0 tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng công nghệ mới trong lĩnh vực điện ảnh. Ở đó, sự phản ánh về hiện thực ảo và hiện thực thật xen lẫn, hòa trộn với nhau trong một bộ phim; việc phát hành và phổ biến một bộ phim vượt ra ngoài khuôn khổ truyền thống là tại các rạp chiếu phim hoặc trên truyền hình; cách thức tiếp cận, hưởng thụ nghệ thuật điện ảnh của khán giả cũng thay đổi, có nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn để thỏa mãn nhu cầu cá nhân ở bất cứ thời gian, địa điểm nào.

Tuy nhiên, khi nền công nghiệp điện ảnh thế giới đã bước sang giai đoạn 4.0 thì điện ảnh Việt Nam vẫn còn khá lúng túng trong áp dụng các công nghệ, kỹ thuật mới. ThS. Nguyễn Lâm Tuấn Anh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho biết: Tính đến hết năm 2018, nước ta có 500 doanh nghiệp được cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh sản xuất phim (thực tế có khoảng 15 - 20 doanh nghiệp đang sản xuất phim chiếu rạp, số còn lại chủ yếu sản xuất các chương trình truyền hình, quảng cáo). Công nghệ sản xuất và chiếu phim lạc hậu và tụt hậu, nhất là trong xu hướng công nghệ sản xuất và phổ biến phim của cả thế giới đã chuyển sang công nghệ số hóa. Tính đến tháng 12.2018, cả nước có 922 phòng chiếu phim. Rạp chiếu phim ở các thành phố lớn, rạp của công ty nước ngoài phát triển ồ ạt, thiếu kiểm soát, chiếm 60% số rạp và chi phối hoạt động chiếu phim tại Việt Nam. Trong khi đó, hệ thống rạp do Nhà nước quản lý tại các tỉnh, thành phố xuống cấp trầm trọng, công nghệ thiết bị chiếu phim lạc hậu, không đáp ứng nhu cầu chiếu phim và thưởng thức của khán giả…

Bên cạnh đó, hầu hết cơ sở vật chất của các cơ sở điện ảnh nhà nước đều được Nhà nước đầu tư 100% kinh phí. Cơ chế đầu tư về cơ bản vẫn là bao cấp, manh mún, phân tán, dàn trải, chồng chéo và không theo một quy hoạch tổng thể, hiệu quả sử dụng trang thiết bị thấp. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ sở kỹ thuật (công nghệ, thiết bị nhập với nhiều quy chuẩn khác nhau) gây lãng phí về khai thác công suất thiết bị. Một số thiết bị máy móc được đầu tư hiện đại ngang với các nước trong khu vực, nhưng đội ngũ chuyên gia lành nghề quá ít, không đáp ứng yêu cầu.

Tạo hành lang phát triển, hội nhập

Xu hướng toàn cầu hóa đã biến thị trường điện ảnh quốc gia trở thành bộ phận không thể tách rời của thị trường điện ảnh quốc tế, đòi hỏi nền điện ảnh các nước nói chung và Việt Nam nói riêng phải chủ động hội nhập toàn diện, tăng cường áp dụng công nghệ hiện đại và tạo vị thế trên thị trường thế giới bằng bản sắc riêng. Theo ông Đỗ Duy Anh, ngành điện ảnh Việt Nam cần chủ động áp dụng những thành quả, tiến bộ khoa học mà công nghệ mang đến, hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp điện ảnh phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ điện ảnh thế giới. Ở đó, cần xác định những bước đi cụ thể như xây dựng nền tảng dữ liệu số hóa toàn bộ quá trình sản xuất, phát hành và phổ biến phim; xây dựng cơ sở cung cấp dịch vụ kỹ thuật số cho ngành công nghiệp điện ảnh; xây dựng công nghệ điều hành quá trình sản xuất, phát hành, phổ biến phim và bản quyền tác giả…

Cho dù công nghệ số hóa với sức mạnh vượt trội của các mẫu thức trong sản xuất, phát hành và phổ biến phim, thì vai trò của con người, những nhà sáng tạo, tác giả của mỗi bộ phim vẫn là lực lượng nòng cốt mà không công nghệ nào có thể thay thế được. Trong khi đó, ThS. Hoàng Dạ Vũ, Viện Sân khấu - Điện ảnh, Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội nhận định: Thành tựu Cách mạng 4.0 khiến điện ảnh Việt đối diện với nhiều tác động tiêu cực như sự tụt hậu về công nghệ, suy giảm sản xuất kinh doanh, dư thừa lao động trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, mất an ninh an toàn thông tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao... Hiện tại, Việt Nam đã có một số nhà sản xuất, phát hành và phổ biến phim cập nhật được trình độ phát triển của điện ảnh thế giới, song nguồn nhân lực chất lượng cao của điện ảnh Việt Nam còn rất ít và không đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thời kỳ làm phim theo công nghệ hiện đại. Tất cả những bất cập đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải đổi mới cách thức và tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành điện ảnh.

Đề án sửa đổi Luật Điện ảnh đang được xây dựng với yêu cầu tạo hành lang pháp lý để vừa bảo vệ và phát triển điện ảnh dân tộc, vừa tăng cường hội nhập quốc tế, đồng thời bảo đảm các quy định của luật phải mang tính khả thi, ổn định và lâu dài. Theo các chuyên gia, nội dung sửa đổi vừa phải đặt trong thực tiễn phát triển đất nước, vừa phải đặt trong môi trường của Cách mạng 4.0 trong điện ảnh. Để làm được việc đó, trong quá trình sửa đổi Luật, cần quán triệt định hướng: Luật không chỉ tạo hành lang pháp lý để quản lý nội dung mà còn phải tạo hành lang pháp lý để phát triển một nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam trong thời đại công nghệ điện ảnh 4.0.

Theo Ngọc Phương - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.