Lời day dứt thi ca

15:06 02/03/2009
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

Lẫm lụi và quyết liệt, dung dị nhưng đằm cay. Đó là hồn thơ của thi sỹ Đinh Nam Khương, ôi cái miền đá ong cát sỏi khô cằn Hà Tây này. Vậy mà cũng lắm con người tài hoa, mà cũng lắm niềm trắc ẩn. Chính nơi đây đã chắp cánh bay cho thơ anh đến với mọi miền. Thơ anh gai góc, bầm dập, day trở như chính nỗi niềm khắc khoải của tập thơ.

Tôi đọc thơ lục bát Đinh Nam Khương đã lâu, ám ảnh một miền quê gió bão. Những con chữ mở ra nhiều biên độ khác nhau được anh khúc xạ qua lăng kính đa chiều, có lúc tưng tửng phiêu lãng như kẻ mộng du nhưng đọc thật kỹ từng bài thơ của anh ta thấy cả dòng sông nước mắt đang ngậm ngùi chảy qua cuộc đời dâu bể trần ai khó nhọc. Người đọc hình dung cả những con chữ bò lổm ngổm trên những trang giấy trắng rát bỏng tâm hồn. Con đường thơ của Đinh Nam Khương không bình yên phẳng lặng, có những năm anh lầm lạc say khướt độc thoại với cái bóng của mình để bừng sáng với câu thơ ẩn ức mê đắm ngổn ngang số phận con người.

Hình như nỗi thống khổ đọa đầy cứ dồn nén thành ngọn núi diệm sơn đang trầm vỡ trong anh đánh thức nỗi buồn thi ca của anh sống dậy một cách oanh liệt. Năm 2003 anh vinh dự được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt . Tôi linh cảm những con chữ muộn mằn đang trở mình vật vã đòi thoát xác phiêu bồng cùng mây gió. Nhà thơ Đinh Nam Khương đã từng đạt nhiều giải thưởng cao ở một số cuộc thi do Báo Văn nghệ tổ chức, anh có bài thơ lục bát góp vào dòng sông thi ca đất Việt. Người đọc nhớ mãi bài: Những dấu chân người, Mưa đêm. Thơ anh thấm đẫm lẽ đời bởi con người Đinh Nam Khương cũng đang mang lắm nỗi dại khờ. Đọc cả tập thơ “Đá vàng” tôi cảm thấy mệt phờ thích thú, mạch thơ sóng sánh đã cuốn hút tôi tới dặm dài xanh thẳm, ở đó chỉ có lòng yêu thương độ lượng và sự sẻ chia đắng ngọt tình người. Cho ta ngâm ngợi vào đức tin:
            Thế mà cũng có người yêu
            Thương tôi săn sẻ bao điều xót xa
            Thế mà ngõ vẫn nhiều hoa
            Dẫn tôi cứ thế bước ra chân trời
            Cho tôi thưa với mọi người
            Thuốc thơ dâng hiến cuộc đời tôi yêu”.
(Lời thưa)

Thoáng nghe mà như có tiếng nức vỡ từ ngàn xưa nơi đất Phật chùa Hương dội vọng lại ngỡ khẽ chạm được một thời kinh. Được biết anh còn thừa hưởng hồng phúc của cha mình là lương y có tiếng ở Hà Tây, bởi thế thơ và thuốc của anh như thể thứ kháng sinh liều cao sẽ làm miễn dịch nỗi đau đang mưng mủ trong tâm hồn và thể xác. Chao ôi! Trái tim mong manh dễ vỡ Đinh Nam Khương có lúc tưởng chừng bất lực trước thế thái nhân tình, chẳng hiểu sao bài thơ “Cối đá” lại va đập mạnh tới lòng người ta đến thế. Phải chăng nó mang một chiết lý nghiệm sinh đầy nghĩ suy nhân bản sâu sắc. Tôi thấy con người Đinh Nam Khương hiện lên bản lĩnh, nhưng cũng vô ưu và thanh thoát, điềm tĩnh ngao du bước qua miền lao đao ghềnh sóng gió:
            “Người ta lấy cối đá
            Úp lên một cái măng tre
            Lặng im chờ cho măng tự chết
            Một năm... Hai năm
            Măng đẩy cối đá lên cao
            Trông giống một cái ô rất lạ
            Cối đá quát
            Ta che mưa nắng cho anh
            Sao không có lời cảm ơn ta”.
(Cối đá)

Tôi thật sự bàng hoàng sung sướng khi vấp phải bài thơ này, không biết nó hay ở cái lập ngôn hay lập tứ hoặc cái tình. Nhưng cứ thấy ớn lạnh gai người, anh khiêm tốn ít khi nói về mình, sao thơ anh lại đa thanh, đa sự đến thế. Qua đây ta thấy khá rõ nhân cách đó là một tấm lòng nhân ái thấm đẫm vị nhân tình:
            “Cảm phục quá tài thơ anh biết mấy
            Thương tắc kè khi chết vẫn ngây thơ
            Tôi muốn được mọi người ngâm trong rượu
            Thêm cho đời một chút ít mộng mơ”.
(Rượu tắc kè)
Trong lúc đám đông ồn ào nhốn nháo, tôi lại thấy anh bơ vơ lẻ loi hoang vắng quá:
            “Tôi ngồi nghe em hát
            Nhớ một thời bom rơi
            Vô tư em chẳng biết
            Cơm mưa buồn trong tôi
” (Nghe em hát)
Thi thoảng đột nhiên tôi thấy anh lại hoang mang thảng thốt vấn đáp mình. Ồ thì ra cái mạch nước ngầm trong lòng anh đang chảy rì rầm:
            “Ta đang ở đâu trên đoạn đường đời
            Câu hỏi ấy, bỗng giật mình
            Cứ mỗi lần nghĩ đến
”. (Chợt nghĩ)
Có lẽ con người Đinh Nam Khương là vậy. Thơ anh như kẻ du ca năm tháng, ngạo nghễ để mọi thứ diễn ra trước mặt mà anh chỉ mặc nhiên tịch lặng bật dậy trước cuộc đời đầy mưu toan vụ lợi và thủ đoạn:
            “Người lại đến cầm cây dao nhìn cây chuối
            Đứng ngồi lâu trước vết chém năm nào
            Sức sống ấy làm người kinh ngạc
            Tiếng chào mào chót vót ngọn tre cao”
(Lời than của cây chuối)

Đây là một nỗi buồn “sống”, một nỗi buồn quẫy đạp không ngủ yên, tôi có cảm giác nỗi buồn ấy như mũi tên bắn vào trái tim để lâu thì âm ỉ nhức nhối còn lôi ra thì buốt xót ứa máu. Thơ anh có tâm trạng dằn vặt cô đơn mà chỉ có thể cảm chứ không thể mổ xẻ một cách rạch ròi. Tôi tiên đoán anh đang hoá giải tâm hồn mình mà chưa thể cắt nghĩa nổi theo nguyên tắc xúc cảm thông thường. Tuy nhiên có chỗ anh làm phá vỡ những cách hiểu săm soi. Chính vì thế thơ Đinh Nam Khương có hình dáng của chú Lạc đà đi qua sa mạc.

Cả tập thơ soi vào nhau lại có ma lực khơi gợi những giai điệu độc đáo mới lạ vô cùng. Khả năng tiềm tàng trong anh ẩn chứa sự đi tìm giữa cõi thi ca (Động - Tĩnh) anh đang miệt mài cởi lửa từ đáy vực thẳm tâm hồn hay nói như: M. Heidegger gọi là: “Trò chơi thế mệnh” bỗng dưng anh lại nhặt được câu thơ này:
            “Không thấy hình bóng em
            Chỉ thấy nỗi cô đơn chảy tràn trên miệng cốc”.
(Trong quán bia)
Hoặc hát lên để đập tan một tảng đá sầu;
            “Hát cho keo dính đôi ta
            Dao chặt không đứt dứt ra chẳng dời
            Hát cho mưa ngập bờ vui
            Cho mây tan nước cho trời trong xanh”.
(Lại hát)
Tôi tin nhà thơ Đinh Nam Khương sẽ làm được điều này. Như chính tập thơ “Đá vàng” đang day dứt trong lời thi ca giữa cuộc đời bề bộn.

B.Đ.V
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.