Linh cảm về những cái chết đầy bi tráng

10:57 08/06/2009
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

Nhà biên kịch Đoàn Tuấn

Tuy nhiên, việc anh viết sách tôi nghĩ hẳn phải có nguyên cớ của nó? Và điều đó quả không sai. Đầu năm nay, tôi nhận được cuốn sách anh gửi tặng có tựa đề: "Những người không gặp nữa" (Nhà xuất bản Trẻ - in xong và nộp lưu chiểu tháng 12 năm 2002), trong "Lời thưa cuốn sách" anh viết: "Cuốn sách này thật khó viết. Hơn 20 năm trước, tôi đã thử viết một lần, dưới dạng tiểu thuyết, nói về những cái chết của đồng đội tôi. Nhưng nhiều người chết quá, không thể dựng được nhân vật chính. Được vài chục trang, lại bỏ.

Mấy năm sau, tôi nghĩ ra một cách. Vẫn tiểu thuyết nhưng dưới dạng những bức điện gửi về trung đoàn (vì tôi là lính thông tin). Mỗi bức điện là một cuộc hành quân, một trận đánh và những người hy sinh. Nhưng viết được dăm sáu bức điện, thấy đơn điệu quá, lại thôi.

...Cuốn sách này tôi đã dựng lên rất nhiều chân dung những đồng đội đã chết. Song cuối cùng, để tập trung cho chủ đề cuốn sách, tôi chỉ chọn ra 18 chân dung những đồng đội của tôi - Những người đã linh cảm về cái chết của mình..."


Đó là cuốn sách: "Những người không gặp nữa" (NNKGN) - Câu chuyện về những cái chết bi tráng và tuyệt đẹp của những người lính tình nguyện ở chiến trường Cam Pu Chia. Với 142 trang sách, Đoàn Tuấn đã một phần tái hiện lại cuộc chiến thật khốc liệt, đẫm máu nhưng đồng thời ở đó cũng phát sáng nhiều phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội! Nếu ai đã từng cầm súng chiến đấu trong đội quân tình nguyện ở những năm tháng đó hẳn sẽ không bao giờ quên sự gian khổ, hiểm nguy... Song có một điều lớn hơn cả, khắc ghi hơn cả vẫn là tình yêu thương đồng đội. Chính tình cảm đó đã giúp họ vượt qua mọi thử thách để chiến thắng kẻ thù. Vì thế, mặc dù cuốn sách NNKGN chủ đề của nó muốn dẫn dắt người đọc đến với một thế giới tâm linh - linh cảm! Nhưng xuyên suốt qua 18 chuyện kể, tác giả đã đồng thời mang đến cho độc giả một tình cảm ấm áp của những người đồng đội kể cả khi họ vĩnh viễn chia tay: "...Chúng tôi đắp mộ cho An khá to - Không biết Tuấn quản kiếm đâu ra bát cơm, quả trứng nhờ anh nuôi Đệ điếc, người Đà Nẵng, mang ra. Tuấn quản đang bận chia cơm ở nhà. Là quản lý, phụ trách bếp ăn tiểu đoàn bộ có khác, Tuấn quản quả chu đáo" (trang 11). Cùng song song với tình cảm thiêng liêng cao quý, đó là những chuyện muôn thuở của lính: Chuyện tếu, tính lạc quan và có cả sự bạc nhược cá biệt... mà chính tác giả là người trực tiếp chứng kiến, nhập cuộc để rồi bây giờ viết nên những trang sách đầy hơi thở của cuộc chiến đã trôi qua gần ba thập kỷ: "Sáng sớm tỉnh dậy, chợt nghe tiếng hát trên đỉnh đồi. Nghiêng người, ló đầu nhìn. Anh Ngườn đang đứng ở đỉnh đồi say sưa hát. Anh mặc chiếc áo bạc màu, rất hợp với nước da trắng hồng dân tộc Mường, chiếc quần sỹ quan màu xanh thẫm tươi, thắt lưng màu mận chín. Hai tay chống sườn, mắt nhìn bầu trời xanh non lúc giao mùa, hát như chim giữa thiên nhiên..." (trang 14); "...Bên ấm trà, tôi kể chuyện về con gái Hà Nội - Anh Thành kể chuyện "Nhất thử, nhì vỹ, thứ ba là đĩ Plây-Ku":

- Này Ngườn, mày đã chơi đàn bà chửa bao giờ chưa?
Nghe người ta bảo chơi đàn bà chửa sướng gấp ba gái thường.
- Rồi - Anh Ngườn khẻ nói.
- Bao giờ?
- Hồi em đi dân công trên Huyện - có một chị bụng chửa. Buổi tối chị ấy cứ kéo em vào ngủ cùng.
- Này, coi chừng trúng phong đấy! Lỗ đít mày có lông không?
- Không.
Chuyện nọ xọ chuyện kia, đêm xuống lúc nào không biết"; "Nhìn bộ mặt bạc nhược của chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Xuân V..., Chúng tôi chán hẳn..." v.v...

Và, thông qua bao chuyện thường nhật ấy, tác giả lần lượt dẫn dắt độc giả đến với từng cái chết liệt oanh. 18 chân dung chiến sĩ - 18 tráng sĩ lần lượt ngã xuống sau mỗi chuyện kể. Hẳn nhiên họ chết mỗi người một vẻ, nhưng tất cả đều giống ở một điểm là có linh tính đã mách bảo trước khi họ từ giã cuộc đời.

Đó là những lời nói đoạn tuyệt của Hoàng An khi đang cùng bạn bè vui cuộc rượu: "...Mỗi lần nâng bát An đều vừa cười vừa nói: "uống đi, chỉ lần này thôi, lần cuối cùng đấy" (trang 7); Hay một đoạn thơ gửi đồng đội của Hà Huy Lan: "Anh Chương đưa tôi xem lá thư. Đúng nét chữ rắn rỏi của anh Lan hay viết điện cho tôi truyền từ tiểu đoàn hàng ngày. Vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ viết trên sổ tay:
Chim xa rừng cho cây nhớ cội. / Người xa người nhớ lắm người ơi/ Từng bên nhau chiến đấu bấy năm trời / Trong phút chốc phương trời nam cách mặt.
Anh Chương cứ nhắc đi nhắc lại rằng lá thư này như một điềm gở báo hiệu anh Lan sẽ hy sinh"
(trang 30); Hoặc một thần sắc và hành động khác thường của anh Trần Thanh Biện: "Tôi nhớ lại gương mặt anh Biện chiều qua, lúc sáng gửi tôi chiếc đồng hồ. Gương mặt ấy có điều gì thảng thốt như tái dại, giọng nói dù vẫn nhỏ nhẹ nhưng không được bình tĩnh, ánh mắt cháy rực sáng. Rất rực sáng. Và dáng đi của anh thật vội vã. Mất hút luôn" v.v... và v.v...

Quả thật, khi đọc đến trang cuối cùng cuốn sách, niềm thương tiếc đã dâng lên trong tôi đến nghẹt thở. Có thể ngoài tình cảm con người, họ còn là đồng đội tôi cùng một chiến trường vào những năm tháng đó. Nữa, họ cũng như Huy - bạn tôi chết khi đang còn rất trẻ và đã cùng linh cảm về cái chết của mình nhưng không ý thức được điều đó. Và có lẽ cùng với tâm trạng ấy của tôi, tác giả đã kể chuyện về những cái chết của đồng đội mình với giọng văn tự sự, trân trọng giàu cảm xúc. Từng trang viết về cuộc sống của người lính ở chiến trường qua mỗi câu chuyện như hoà tấu thành bản anh hùng ca ngợi ca những người đã chiến đấu và ngã xuống vì lợi ích của nhân loại. Và cùng song song với tư tưởng đó tác giả đồng thời khai phá thêm về một khía cạnh thế giới tâm linh, đó là linh cảm của con người trước cái chết. Tuy nhiên những chuyện kể ở cuốn sách này vẫn chỉ mới dừng lại ở mức độ sự kiện mà tác giả và một số đồng đội đã dày công xâu chuỗi nó bằng ghi chép ở chiến trường và tư liệu từ thư từ, nhật ký... Có thể, sự khai phá này không còn mới mẻ trên thế giới, nhưng ở nước ta hy vọng sẽ là một món quà quý cho các nhà nghiên cứu khoa học và những ai quan tâm đến nó.

Huế, ngày 27-7-2003
N.T.T
(176/10-03)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.