Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam(*)

15:29 11/04/2014

LÊ QUỐC HIẾU

Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

Trong công trình mới xuất bản Lịch sử phê bình văn học Việt Nam, PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh cùng các đồng nghiệp tại phòng Lý luận, Viện Văn học đã thể nghiệm thành công bước đầu, xây dựng cuốn sách đầu tiên nghiên cứu “lí luận, phê bình văn học như một chỉnh thể độc lập, có lịch sử riêng kéo dài từ khởi đầu cho đến ngày hôm nay”. Căn cứ vào thực tế nền văn học nước nhà, nhóm nghiên cứu đã không xét hai đối tượng lí luận và phê bình theo hai hướng độc lập, thường thấy trong những công trình trước đó mà “viết gộp lịch sử lí luận với phê bình” theo từng giai đoạn cụ thể. Cuốn sách được viết trên một tinh thần, quan điểm mới khi cho rằng lịch sử lí luận, phê bình văn học dân tộc đồng thời cũng là lịch sử thay thế nhau của các quan niệm văn học và các phương pháp tiếp cận văn học thông qua các tác gia, từng giai đoạn. Dĩ nhiên, nhóm tác giả cũng rất chú ý đến những sự kiện quan trọng khác như: các cuộc tranh luận văn học; các sự kiện văn học, văn hóa, lịch sử có tác động mạnh đến đời sống lí luận, phê bình một thời. Trên tinh thần đó, mỗi giai đoạn được trình bày theo hai phần: phần tổng quan mô tả những nét chính bối cảnh đời sống lí luận, phê bình; phần còn lại - những lối tiếp cận văn học, nhấn mạnh vào tư tưởng và phương pháp phê bình của các tác giả tiêu biểu.

Không cấu trúc thành hai phần “lí luận” và “phê bình”, cũng không đi theo hướng tiếp cận thể loại, từ điểm nhìn lịch đại, cuốn sách được cơ cấu thành bốn phần, 16 chương tương ứng với bốn giai đoạn phát triển của văn học dân tộc. Cách kết cấu như vậy, cho thấy sự lớp lang, mạch lạc đồng thời đảm bảo được tính hệ thống, tính cân đối, phù hợp với sự triển diễn mang tính lịch sử của đời sống lí luận, phê bình.

Phần thứ nhất trình bày “những quan niệm văn học và lối phê bình thi học thời trung đại”. Ở giai đoạn đầu thời kì trung đại, hầu như thiếu vắng những quan niệm văn học được phát biểu trực tiếp bằng thể văn nghị luận. Kết luận này dựa trên những cứ liệu xuất hiện sớm nhất vào thế kỉ XV: Tựa Lĩnh Nam chích quái (Lý Tế Xuyên) và tựa sách Việt âm thi tập tân san (Phan Phu Tiên)... Bức tranh “lí luận” và lối phê bình giai đoạn này được khái quát dựa trên các phạm trù: chức năng của văn học (“văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”); tác giả và tác phẩm (văn/thơ là người), quá trình sáng tạo (tâm - cảnh, tâm - lời); tiêu chí đánh giá văn học (tính tự nhiên, chân thực). Từ những vấn đề cốt lõi này, công trình đi sâu hơn vào thực tiễn vận động của những quan niệm văn học, khái quát các quan niệm văn học thế kỉ XIV - XV, giới thiệu tư tưởng văn nghệ Nguyễn Trãi, như một đại diện tiêu biểu, trên các bình diện: vai trò và trách nhiệm xã hội của nghệ sĩ; tài năng và cảm hứng nghệ thuật; khái quát hoạt động nhà của bác học Lê Quý Đôn với tư cách nhà sáng tác, nhà lí luận, nghiên cứu phê bình. Đồng thời, công trình cũng giới thiệu một “hệ thống” quan niệm văn học ở thế kỉ XVIII - XIX với những đại diện tư tưởng tiên tiến như: Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Vị, Phan Huy Chú… Bên cạnh đó, sự xuất hiện của thi thoại với các tên tuổi Nguyễn Đức Đạt (Nam Sơn tùng thoại), Miên Thẩm (Thương Sơn thi thoại)… được coi như một bước phát triển của lí luận, phê bình.

Ở phần hai, công trình tập trung tái hiện diện mạo lí luận, phê bình hiện đại, bắt đầu từ giai đoạn 1900 - 1945. Nếu như giai đoạn 1900 - 1932 là thời kì chuyển mình, hoạt động lí luận và phê bình hướng về “cội nguồn” và “duy tân” thì giai đoạn 1932 - 1945 đầy tràn sự thăng hoa, rực rỡ với những tư tưởng mới mẻ, bùng nổ nhiều cuộc tranh luận kéo dài, đồng thời, xuất hiện một đội ngũ những nhà lí luận, phê bình chuyên nghiệp. Một loạt những kiệt tác phê bình kinh điển xuất hiện như: Phê bình và cảo luận (Thiếu Sơn, 1933); Hồ Xuân Hương, tác phẩm thân thế và văn tài (Nguyễn Văn Hạnh, 1936); Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh, 1942), Nguyễn Du và Truyện Kiều (Trương Tửu, 1942), Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Trương Tửu, 1945); Văn học khái luận (Đặng Thai Mai, 1944)… Những công trình này đã đặt nền móng cho các phương pháp phê bình mới như: lối phê bình tiểu sử học (chương VI), lối phê bình ấn tượng chủ quan (chương VII), lối phê bình khoa học (chương VIII)…

Phần ba, cuốn sách tập trung giới thiệu hai khu vực văn học miền Bắc và miền Nam trong giai đoạn 1945 - 1985 với hai thể chế, ngữ cảnh chính trị-văn hóa, ý thức hệ, đường hướng hoạt động khác nhau.

Ở miền Bắc, đời sống lí luận, phê bình chịu ảnh hưởng của mỹ học, lí luận Mác-xít và các thiết chế quản lí văn nghệ của nhà nước. Theo các tác giả, chỉ tính riêng trong giai đoạn này, đã nổ ra bốn cuộc tranh luận văn nghệ: Hội nghị tranh luận Việt Bắc, 1949; Phong trào Nhân văn Giai phẩm, 1958; Tranh luận về tính người trong văn học, 1962; Tranh luận về “hiện thực phải đạo”, 1979. Với sự tác động, chi phối của cơ chế quản lí, tư tưởng mĩ học Mác-xít, những cuộc tranh luận văn nghệ trên không nằm ngoài nỗ lực vượt thoát, “đi chệch” khỏi “đường bay” đã được thiết đặt. Ngoài ra, trong giai đoạn này, hiện thực nghệ thuật và phương pháp nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa là những “phạm trù trung tâm của mĩ học và phê bình Mác-xít ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam”. Những tư tưởng này là cơ sở hình thành, “di dưỡng” phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Mặt khác, chủ nghĩa lịch sử là một phương diện quan trọng trong triết học và phê bình văn học Mác-xít. Do vậy, các công trình phê bình, khảo cứu đều thấm nhuần tinh thần lịch sử. Tiêu biểu phải kể đến: Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (Trương Tửu, 1958); Lược thảo lịch sử Việt Nam (nhóm Lê Quý Đôn, 1958)…

Khác với miền Bắc, đặc trưng lí luận, phê bình văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975 chịu sự tác động sâu rộng của ngữ cảnh văn hóa - xã hội (thể chế chính trị; bản sắc di dân; ý thức hệ mới; báo chí Sài Gòn; đội ngũ sáng tác…). Thực tại này đã kiến tạo/hình thành nên một “dòng văn học riêng” thấm đẫm bản sắc, tâm thức di dân đồng thời phát sinh nhiều dòng phái, nhiều xu hướng, với đội ngũ tác giả và số lượng tác phẩm đông đảo, phức tạp. Đây còn là giai đoạn du nhập, thử nghiệm hàng loạt những phương pháp phê bình mới mẻ. Bên cạnh ba khuynh hướng nổi bật trong đời sống lí luận, phê bình văn học miền Nam những năm 60 gắn với những đại diện tiêu biểu như: phê bình hiện sinh - Nguyễn Văn Trung, Trần Đỗ Long Vân, Thế Phong…; phê bình phân tâm học - Nguyễn Văn Trung, Tạ Tỵ, Đặng Tiến, Uyên Thao…; phê bình cấu trúc luận - Trần Thiện Đạo, Trần Thái Đỉnh, Đỗ Long Vân…; và các phương pháp phê bình khác như: kí hiệu học, thi pháp học, mĩ học tiếp nhận, nữ quyền luận, hiện tượng luận, phê bình văn mới, phê bình xã hội học… Ảnh hưởng của lí luận phương Tây đặc biệt là Pháp cũng tác động không nhỏ đến diện mạo văn học đô thị miền Nam giai đoạn này.

Phần bốn là phần khá đặc biệt của cuốn sách. Đặc điểm, vai trò của nền lí luận, phê bình giai đoạn “nhạy cảm” (từ 1986) được nhóm tác giả định danh: “Từ phản tư đến hội nhập”. Chưa bao giờ ý thức/nhu cầu “phản tư” - “sự tự phản tỉnh, tự phê phán của giới lí luận, phê bình đối với các giá trị cũ” lại cấp thiết như lúc này. Ý thức, giai đoạn “phản tư” thể hiện qua việc đánh giá lại các hiện tượng văn học quá khứ (phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn) và nhận thức lại một số vấn đề: văn học và hiện thực; văn học và chính trị; vấn đề con người trong văn học… Thời kì “hội nhập” được định hình ở việc giới thiệu và ứng dụng (việc du nhập) hàng loạt các lí thuyết phương Tây với các xu hướng ngôn ngữ học, xu hướng phê bình sự đọc và xu hướng tâm lí học. Hai hình thái “phản tư” và “hội nhập” của lí luận, phê bình giai đoạn này một mặt cho thấy sự phát triển, vận động mặt khác cũng chứng tỏ khả năng thích ứng, hội nhập của một nền văn học. Hai phương pháp phê bình nổi bật trong giai đoạn này là Thi pháp học và Ngữ học gắn liền với tên tuổi các nhà nghiên cứu như: Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Phan Ngọc…

Trong thời đại “văn hóa số”, “nghệ thuật số”, công trình này đã “không quên” bàn luận đến sự tác động của công nghệ truyền thông đối với đời sống lí luận, phê bình. Những trải nghiệm, tiếp nhận, sáng tạo, diễn giải nghệ thuật đã gần như bị thay đổi triệt để trong thời đại kỹ trị. Và như vậy, hoạt động lí luận, phê bình - một khu vực đầy hoạt biến của đời sống văn học không chỉ có những “xáo trộn”, “biến đổi” về cấu trúc mà còn về cách thể nghiệm, thực hành văn hóa nghệ thuật.

Qua công trình Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam, nhóm tác giả đã khảo sát, đánh giá những diện mạo khác nhau của đời sống lí luận, phê bình bao quát trong một thời gian liên tục, kéo dài từ thời kì khởi đầu cho đến hiện tại. Lí luận, phê bình đã được nghiên cứu như một chỉnh thể độc lập, có sự phát triển tự thân trong khu vực sôi động của đời sống văn chương. Công trình xứng đáng là một thử nghiệm thành công cho mục tiêu này. Cuốn sách thực sự cần thiết cho các nhà hoạt động văn học, nghiên cứu sinh và sinh viên ngữ văn.

L.Q.H
(SDB12/03-14)


..............................................
(*) “Lịch sử lí luận, phê bình văn học Việt Nam” (Nxb. Khoa học Xã hội, 2013).

[1] Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản đang được tranh luận qua công cuộc đổi mới (1987 - 1992) (Lê Bá Hán chủ biên); Lý luận phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1986 - 2000 (Trần Đình Sử); Lí luận, Phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX - 1945 (Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên, 2005); Mấy mươi năm phát triển của lí luận văn học Việt Nam (Phương Lựu, 2006); Hai mươi năm lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học - Thành tựu và suy ngẫm (Trần Đình Sử, 2006), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Trần Mạnh Tiến, 2008), Lí luận - Phê bình 1975 - 2000, quyển 5, tập XII đến tập XVII (Nguyễn Ngọc Thiện chủ trì, biên soạn, 2010); Lí luận phê bình từ “phản tư” đến hội nhập (Trịnh Bá Đĩnh, 2010; Lí luận phê bình và đời sống văn chương (Nguyễn Ngọc Thiện, 2010)…








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.