Lão nhà văn Trang Thế Hy: đêm nghe dừa rụng ngày nhìn chuột rơi

14:27 25/12/2008
THANH THẢO“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngvề sông ăn cá về đồng ăn cua”

Về nhà văn Trang Thế Hy, TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (bộ mới) viết: “Trang Thế Hy chuyên viết truyện ngắn và ký. Những tập truyện ký đã xuất bản: Nắng đẹp miền quê ngoại (1964), Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ mười ba (1989), Tiếng khóc và tiếng hát (1993). Tác phẩm mới nhất, có thể coi như một tuyển tập của ông: Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác (2001)”. Và TỪ ĐIỂN trích một câu trong một truyện ngắn của Trang Thế Hy để nói về quan niệm nghệ thuật của chính tác giả: “Tôi nghe đó (từ câu chuyện của chị bán thuốc lá) là lời răn dạy rất nghiêm có giá trị thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi đau khổ lớn của số đông thầm lặng”.
Sinh năm 1924, Trang Thế Hy đã tham gia trọn vẹn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hiện sống tại quê nhà, huyện Châu Thành, thị xã Bến Tre.

Có thể nói cả đời Trang Thế Hy thuận theo những con “gió đưa gió đẩy”. Gọi những con gió ấy là số phận cũng được, mà gọi là sự tình cờ vô thường cũng xong! Nghe nói, hồi ở chiến khu miền Đông Nam Bộ, Trang Thế Hy luôn thủ sẵn vài trăm... lưỡi câu để sẵn sàng giăng câu kiếm cá, hay ông có biệt tài bắt... nhái băm chả, câu rắn mối, biến những điều không thể thành có thể, viết chầm chậm những câu văn trong khi chờ mấy gã chuột sa bẫy trong những đêm rừng lạnh. Ngày đó, tôi ở bên binh vận cùng Lưu Kiểng Xuân - một nhà văn đặc Nam Bộ quê Cần Giuộc Long An. Tư Xuân vốn là trung úy lái trực thăng của quân đội Sài Gòn, nhưng là cơ sở cách mạng ở nội thành, là cộng tác viên của nhóm Tin Văn-tên một tờ tạp chí văn nghệ thiên tả, có liên hệ với cách mạng. Tư Xuân sau đó đã lên chiến khu,viết truyện và bút ký có nhân vật là lính Sài Gòn, nên được đưa về ban tuyên truyền binh vận. Còn tôi chỉ là anh sinh viên mới tốt nghiệp ở Hà Nội, vào bộ đội chưa lâu, cũng làm tuyên truyền binh vận cho đài phát thanh, rồi đi B2, rồi về ban binh vận, rồi... Chúng tôi chơi với nhau do có chút máu văn chương, và mỗi lần, khi chuyện trò về văn học, bao giờ Tư Xuân cũng léo vào cái tên Trang Thế Hy dưới biệt danh thân mật là “Tư Sâm”: “Tui khoái cha Tư Sâm này, văn chả kỹ mà sâu, lại đúng giọng Nam Bộ!” Dù chưa gặp Trang Thế Hy, cũng chưa có may mắn đọc văn ông-trong rừng mấy thứ văn chương còn hiếm hơn cả chuột hay rắn mối-nhưng tôi tự nhiên có cảm tình với Trang Thế Hy từ đó. Qua Tư Xuân, tôi còn biết Tư Sâm là người có “hoàn cảnh” có tâm trạng và nhiều lúc rất buồn, cô đơn nữa. Như thế lại giống Tư Xuân và tôi.

Có một lần, Tư Xuân rủ tôi đi sang cứ của ban văn nghệ R chơi,thăm Tư Sâm. Tiếc thay, lần đó khi chúng tôi mất nửa ngày trời băng qua những trảng cỏ voi và rừng dầu đến với Tư Sâm, thì ông lại đi công tác chiến trường, không có ở cứ. Hai chúng tôi được Anh Đức tiếp tại nhà, đãi một bữa cơm có thịt hẳn một con gà-điều quá hiếm ở rừng hồi ấy. Thôi thì ông anh Tư Sâm cũng xá cho, tôi với Tư Xuân chẳng qua cũng “gió đưa gió đẩy về cứ ăn... gà” chứ chúng tôi không cố ý. Hôm đó, trở về qua trảng cỏ voi, và tôi viết được bài thơ “Những dấu chân qua trảng cỏ”. Âu cũng là cái duyên với Trang Thế Hy, dẫu chưa gặp được ông, nhưng nhờ chuyến thăm hụt ông mà lận lưng được bài thơ không đến nỗi nào, vậy là ấm bụng! Cách đây mấy năm, khi gửi tặng tôi tuyển tập truyện ngắn “Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác” - Lão nhà văn Trang Thế Hy đề tặng: “Tặng Thanh Thảo, người trở về vùng Tháp Chàm còn để lại ở rừng già phương những “dấu chân trên trảng cỏ”. Một lời đề tặng vừa tình cảm vừa “kỹ” - đúng văn chất Trang Thế Hy. Hoá ra ở đời vẫn có những tương hợp tình cờ như thế, “gió đưa gió đẩy” chúng tôi qua những cánh rừng Miền Đông những bưng biền Đồng Tháp để cuối cùng, dù người về Bến Tre “đứng như bóng dừa”, kẻ trở lại quê nhà miền Trung nương bóng Tháp Chàm, ăn don và cả ăn đòn, chúng tôi lại gặp nhau... ăn cua. Vâng, ăn cua cốm.

Ngay tại thị xã Bến Tre, sát mé sông Hàm Luông hẳn hoi. Tôi, nhà thơ Chim Trắng với nhà giáo dạy văn Nguyễn Tấn Huy từ Sài Gòn về Bến Tre thăm lão trượng Trang Thế Hy. Chim Trắng đã ngót 70 mà tay lái  còn “lụa” lắm! Nghe nói ở quê tôi có ông chủ tịch ít tuổi hơn Chim Trắng nhưng mới về hưu, nhớ tiếc một thời vàng son oanh liệt nên “Buổi sáng ông mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường”... chờ xe, kết luận theo thơ Trần Vàng Sao thì ông là “một người yêu nước mình”. Đứng chờ xe, dẫu xe không đến, là còn muốn làm việc, là còn “yêu nước mình”, chứ sao! Chim Trắng cười ngất, nói là anh sẵn sàng ra Trung lái xe hầu “một người yêu nước mình” ấy. Anh vốn hâm mộ những người yêu nước. Chúng tôi ăn cua cốm, thứ cua hai da vừa lột chưa lâu, có gạch béo và mềm, hạp với răng cỏ lão nhà văn. Lỗ Tấn có biệt tài là viết nhấn, mỗi câu văn là một con sóng, con sau cao hơn, mạnh hơn con trước. Shekhov thú nhận là mình không thật đam mê trong bất cứ việc gì, cả làm thuốc và viết văn. Tôi nói với Nguyễn Quang Sáng, anh viết về tôi đúng cả, chỉ có cái này là sai: Trang Thế Hy quyết sống chết với văn chương. Không có đâu! Tôi chỉ dám là “người tình thoáng chốc” của văn chương thôi. Tôi không ăn thua đủ về bất cứ cái gì. Đó là cái dở nhất của tôi. Kể cả giải thưởng mà người ta định trao cho ông rồi... thôi? Ừ, cả giải thưởng. Nhưng tôi phải thú nhận là tôi có sốc nhẹ, vì khi nghe thông báo cứ như đã “được rồi”, tôi lỡ dại khoe với mấy người bà con nghèo, là Tư Sâm sắp khá, có món tiền to, sẽ biếu mấy anh em chút đỉnh tiêu chơi. Nào ngờ. Coi như tôi nói dối họ. Không nói dối đâu, anh Tư, nhưng là nói chưa thành sự thật.

Quán ăn Trương Ký, lão nhà văn khẽ khàng gắp miếng cá chẽm kho ngót (kho ngọt) có để chanh, chiêu ngụm rượu vang trắng Alsace chánh hiệu Chim Trắng mang từ Sài Gòn xuống. Lỗ Tấn nói “nhà văn như con bò ăn cỏ khô rơm khô nhưng phải cho đời sữa tươi”. Tôi đế: cá chẽm với vang Pháp cũng là cỏ khô sao anh Tư? Mấy anh em cười sảng khoái. Ở đời, như Gorki phân loại, thì có hai kiểu chết: một là cháy bùng lên, hai là mục rã. Tôi thuộc loại thứ 2. Nhưng cố gắng làm sao mục rã coi cho được. Kể cả bùng cháy, cũng đừng bùng cháy khó coi, phải hôn anh Tư? Cua cốm này ăn đậm, cua cũng phải tới kỳ, ăn mới ngon, nữa là văn chương. Trang Thế Hy đeo bên thắt lưng một điện thoại loại xịn nhất, dường như có kết nối toàn cầu, màu bạc sáng loáng. Thỉnh thoảng ông lại móc điện thoại, mở nắp, chiêu một ngụm. Một ngụm thông tin toàn cầu? Rượu này tôi đặt riêng, nấu bằng nếp, uống thử coi, ngon hơn rượu Tây đó!  Chúng tôi cứ trò chuyện lai rai không đâu vào đâu. Bóng tối len nhẹ vào quán trên những bước chân mèo, và trong ánh chập chờn, mắt ông lão nhà văn lấp láy. Người như thế có khi biết mà không nói, có khi nói nửa câu những gì mình nghiền ngẫm trọn đời. Nửa câu còn lại, để gió sông Hàm Luông giải quyết.

Hồi trưa, lúc ngồi với Trang Thế Hy trong vườn dừa nhà ông, tôi để ý vườn dừa nhà bên có những miếng thiếc trơn bề rộng độ 3 tấc bao quanh thân dừa. Ngạc nhiên tôi hỏi, lão nhà văn cho biết, đó là cách ngăn chuột ăn dừa. Chuột dừa ở xứ cù lao này răng sắc và chịu khó lao động. Chúng phải gặm xuyên qua vỏ dừa, xuyên cả gáo dừa mới ăn được cơm dừa. Ăn cơm dừa nhưng không uống nước dừa, mà chỉ uống nước mương. Nên chúng phải trèo lên leo xuống. Những miếng thiếc kia khác nào những “cột mỡ” đối với chúng. Xuống cũng té “bịch”, mà lên cũng té “bịch”. Nhưng tôi không có tiền bao thiếc quanh thân dừa nhà mình, mỗi miếng thiếc tới 30 nghìn đồng lận. Nghĩa là vì nghèo mà ông có tình thử đạo? Tôi chọc. Tôi bây giờ “đêm nghe dừa rụng ngày nhìn chuột rơi”, kể cả dừa và chuột hàng xóm. Những tiếng rơi ấy, nghe buồn lắm. Tôi nhìn dáng ông lão lầm lũi đi con đường đất lầy lội dọc bờ mương về nhà mình, lúc chúng tôi chia tay nhau. Biết đâu au revoir (tạm biệt) chẳng là adieu (vĩnh biệt). Ông nói, giọng ngùi ngùi. Lần đầu tiên sau 24 giờ gặp nhau, tôi nghe một thoáng hẫng như đã từng đọc “những ổ gà không khí” có rất nhiều trong văn ông. Những cú hẫng những ổ gà những khoảng lặng như thế trong văn Trang Thế Hy bao giờ nghe lại đọc lại cũng khiến tôi ngùi ngùi. Ông đã 83 tuổi, cầu Rạch Miễu làm chưa xong, còn đoạn đường vô nhà ông vẫn sình lầy. Bao giờ? Vâng, bao giờ  chúng tôi gặp lại nhau?
Bến Tre-Quảng Ngãi một ngày sau World Cup 2006
                 T.T

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.