Trước giá trị di sản và thách thức do biến tướng, thương mại hóa trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ, series phim Mẹ Việt - Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã chính thức ra mắt cuối tuần qua. Theo bà Đàm Lan, Chủ nhiệm dự án phim, mỗi thước phim là hành trình lắng đọng tâm thức, tìm về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng nội sinh của dân tộc Việt.
Phim Mẹ Việt - Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có sự tham gia của nhiều thanh đồng
Khơi luồng chảy xưa
- Cơ duyên nào đưa bà đến với dự án phim về tín ngưỡng thờ Mẫu?
“Yếu tố cốt lõi để duy trì, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể là con người. Nếu không hiểu biết, nhận thức đúng thì giá trị sẽ mất đi, khó nữa là cái mất đó lại không thể nhìn ngay ra được, nếu để lâu ngày muốn khôi phục là điều thực sự khó khăn, thậm chí không thể. Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ của người Việt cũng vậy”. Chủ nhiệm dự án phim Đàm Lan |
- Đầu năm 2017, nhận được đề nghị hợp tác sản xuất phim tài liệu cho các đền phủ, tôi bắt đầu tìm hiểu, nhận ra giá trị tín ngưỡng cực kỳ to lớn. Tôi ý thức phải làm thật bài bản series phim về tín ngưỡng thờ Mẫu, từ tính nội sinh, giá trị lịch sử, văn hóa, tinh thần, đến bản chất của tín ngưỡng này.
- Sự bài bản như bà nói được thể hiện cụ thể thế nào?
- 108 tập phim (12 - 15 phút/tập) nhằm tạo nên bức tranh tổng thể về tín ngưỡng thờ Mẫu từ góc độ lịch sử, khoa học, văn hóa và tâm linh... Các khía cạnh này nói chưa ai khai thác thì không đúng. Đã nhiều sách vở, công trình nghiên cứu đề cập một giá trị cụ thể nào đó, đấy là kho tài liệu quý, nhưng khi văn hóa đọc - nghĩ bị thách thức thì việc lan tỏa giá trị truyền thống cần cách thức phù hợp với thời đại văn hóa nghe - nhìn. Thể loại tài liệu quyết định tính chân thực nội dung và đặc sắc phim ảnh thể hiện cái hay, cái đẹp cũng như những mặt trái đang tồn tại. Tôi muốn qua mỗi thước phim, xây dựng một cuốn từ điển sinh động bằng hình ảnh về tín ngưỡng nội sinh của người Việt.
- Quá trình khảo sát, tìm hiểu về tín ngưỡng này, có điều gì khiến bà băn khoăn?
- Băn khoăn cũng là động lực thôi thúc tôi làm phim. Vì hay, đẹp, thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nhưng hay, đẹp thế nào thì phần lớn cộng đồng không biết. Có người hỏi tôi múa hát thì lên sân khấu, sao lại múa may quay cuồng trước ban thờ (!)… Thậm chí, nhiều ông đồng bà cốt khi được hỏi, họ hiểu cái lung linh, huyền diệu của tín ngưỡng, nhưng giá trị ở đâu thì không nói cụ thể được. Nếu gặp người không tin vào tín ngưỡng, cho rằng đó là mê tín dị đoan, thì họ không đủ ngôn từ, lý lẽ để giải thích. Tâm lý đó vô hình trung khiến di sản không được nhìn nhận đúng nghĩa. Cho nên, làm thế nào đưa tín ngưỡng về luồng chảy xưa; bảo tồn, phát huy thế nào cho hợp thời đại... là thách thức lớn.
- Liệu rằng khán giả có tìm thấy câu trả lời qua các tập phim?
- Phim được chia thành 5 phần, ở mỗi phần, mỗi tập sẽ cung cấp thông tin, giải quyết một thắc mắc cơ bản. Như mở đầu phim nói về tín ngưỡng, người Việt thờ gì, tại sao họ sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ nhân thần, thiên thần...? Hay tại sao là tam phủ, tứ phủ, sao có hầu đồng, hầu bóng, những ai có thể hầu đồng, hầu bóng? Thái độ và hành động thế nào với cơ sở tín ngưỡng và những người thực hành tín ngưỡng để giữ thuần phong mỹ tục?…
“Hiểu tín ngưỡng để bảo vệ mình”
- Tinh hoa của tín ngưỡng là đường hướng của loạt phim, nhưng mỗi thời đại, vùng miền có đặc sắc riêng. Làm sao chắt lọc, tích hợp các yếu tố một cách sinh động, thưa bà?
- Khó khăn nhất là dự án không có hệ thống tài liệu đầy đủ để làm căn cứ. Đứng trên góc độ nhà nghiên cứu tín ngưỡng, ta có đặc sắc về văn hóa; ở góc độ nhà nghiên cứu mỹ thuật sẽ thấy sự phong phú, sáng tạo trong thể hiện; góc độ nghiên cứu kiến trúc sẽ thấy sự khoa học, tinh tế của ông cha; hay góc độ tâm linh thì thấy sự huyền diệu... Xây dựng một bức tranh hoàn chỉnh là thử thách lớn. Vì thế, chúng tôi phải mời một lực lượng lớn nhà nghiên cứu, thực hành tín ngưỡng, người chấp tác tại các đền, phủ hoặc người giữ thần phả, văn bản cổ...
- Bên cạnh người giữ được lề lối, phép tắc thực hành, không ít bộ phận mượn sập công đồng để phô diễn bản thân, khoe tiền tài... Việc huy động các thanh đồng tham gia bộ phim có tính đến vấn đề này không, thưa bà?
- Mặt trái đó những ai tâm huyết hoằng dương tín ngưỡng này đã nhìn rất rõ. Có những sơn môn vẫn giữ và hướng dẫn cho thế hệ tiếp bước lề lối thuần phong mỹ tục, nhưng cũng có sơn môn không được như thế, nên giá trị ngày càng mai một. Chúng tôi gặp gỡ và làm việc với rất nhiều thanh đồng, song đồng hành với series phim cần thêm những người tâm huyết với tín ngưỡng, truyền thống. Chúng tôi tâm niệm dự án có thể bị dừng lại giữa chừng do thiếu kinh phí nhưng tuyệt nhiên không vì tài chính mà làm sai lệch bản sắc văn hóa.
- Tìm hiểu lịch sử tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, bà có suy nghĩ gì về hiện trạng của nó?
- Gần 2 năm sau khi được UNESCO vinh danh, tín ngưỡng thờ Mẫu đang ở thời kỳ hoàng kim. Nhưng cái gì phát triển nhanh cũng nguy hiểm, do mặt trái xuất hiện càng nhiều. Kinh tế phát triển làm đẹp cho tín ngưỡng nhưng nhiều thứ phát huy thái quá dẫn đến xa rời cái gốc của nó là hướng thiện, hướng tâm cho con người. Rồi tình trạng kinh tế hóa tín ngưỡng, tam phủ, tứ phủ hóa các đền, phủ... Đó là lý do bộ phim ra đời, nhằm giúp mọi người hiểu đúng di sản. Có thước phim hầu đồng từ những năm 1920, có những bức tranh hầu đồng rất cổ người xưa để lại… toát lên nét thanh cao, tao nhã của tín ngưỡng này.
- Ở góc tiếp cận sâu như vậy, có cảm giác khán giả xem xong series phim có thể trở thành “chuyên gia” về tín ngưỡng thờ Mẫu! Không biết bà có kỳ vọng đến mức ấy?
- Tôi không kỳ vọng như thế! Kỳ vọng là người xem hiểu ngoài yếu tố tâm linh, nó còn có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học… Trên hết, tôi mong họ có hệ thống thông tin đầy đủ để biết tự bảo vệ mình trước mặt trái. Điều chúng ta vẫn lo ngại nào là thương mại hóa, bói toán dọa nạt… sẽ không còn khi người ta thực hiểu về tín ngưỡng.
- Xin cảm ơn bà!
Theo Lê Thư - ĐBND
“Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.
Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?
Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.
Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.
Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…
Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”
Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.
Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.
L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.
Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.
Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...
Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.
Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt
Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.
Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.
Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.