Lại bàn về nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du

15:16 12/06/2018

MAI VĂN HOAN

Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.

Ngôi nhà rường của ông Mai Khắc Đôn ở Hậu Thôn, Kim Long, Huế

Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm 1820). Nguyễn Du mất ở Kinh, lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Được tin Nguyễn Du qua đời, quan lại ở Kinh nhiều người làm câu đối phúng viếng, hết lời ca ngợi tài năng, đức độ của ông: Nhất viện cầm tôn nhân ký khứ/ Đại gia văn tự thế thanh truyền (Rượu đàn đầy viện người đi vắng/ Văn tự hơn đời tiếng dội vang); Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm/ Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh (Một kiếp tài hoa, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng thẹn/ Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh). Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh”. Tuy nhiên, không phải điều gì được chép trong gia phả đều chính xác. Vì vậy, việc sử dụng những ghi chép trong gia phả cần phải hết sức thận trọng. Về địa điểm an táng Nguyễn Du, Gia phả ghi “lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên” là thiếu chính xác. Xã An Ninh thuộc huyện Hương Trà (còn gọi là Kim Trà) chứ không phải thuộc huyện Quảng Điền. Thời Gia Long gọi tỉnh Thừa Thiên là doanh (dinh) Quảng Đức. Khi Nguyễn Du mất, Minh Mạng lên ngôi mới được 7 tháng nên ông chưa thể thay đổi gì nhiều. Mãi đến 12 năm sau (1832) ông mới đổi doanh (dinh) Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên và chia thành 6 huyện: Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc (thời Gia Long chỉ có 3 huyện: Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang). Điều đó chứng tỏ Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do người đời sau chứ không phải là người cùng thời với Nguyễn Du biên soạn nên việc nhầm lẫn không thể tránh khỏi. Riêng địa danh An Ninh là chính xác. An Ninh nguyên là một xã hình thành trước khi xuất hiện sách Ô Châu cận lục (1555), đến thế kỷ XVIII mới tách làm hai: An Ninh thượng và An Ninh hạ. Trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi: “An Ninh hạ và An Ninh thượng thuộc tổng An Ninh, huyện Hương Trà”. Dựa vào địa danh xã An Ninh, nhà nghiên cứu Hồ Đắc Duy đã viết công trình Đi tìm nơi an táng của thi hào Nguyễn Du tại Huế (thuyết trình ngày 16/11/2008 tại Cung Văn hóa Lao động TP HCM và đăng trên báo Văn hóa Phật giáo số 131 ngày 16/6/2011). Ông Hồ Đắc Duy về Huế khảo sát và nhờ một số người giỏi phong thủy tác nghiệp, đã đi đến kết luận: “Mộ cũ Nguyễn Du là tiền thân của ngôi mộ Thượng thư Bộ công Hoàng Hữu Thường, thuộc Bàu Đá, làng An Ninh thượng, phía tả sông Bạch Yến”. Nhưng đó cũng chỉ mới là giả thuyết, chưa có cơ sở khoa học đủ sức thuyết phục. Thật khó tin gia đình một vị Thượng thư lại chọn nơi từng có kẻ yên nghỉ để an táng người thân của mình, dù thế đất ở đó có tốt đến mấy đi nữa. Sư thầy Lương Phương (năm nay đã 86 tuổi) ở chùa Phước Duyên, bên cạnh cánh đồng có ngôi mộ Thượng thư Hoàng Hữu Thường cũng xác nhận như vậy. Sư nói: Không thể! Không thể! Còn cụ Nguyễn Đức Pha (trên 70 tuổi) người làng An Ninh thượng khẳng định: Trước 1975, tục truyền khu vực nghĩa địa thuộc xã An Ninh chỉ cho phép người trong xã chôn cất, Vì vậy, theo cụ: “Nơi an táng Nguyễn Du ít có khả năng ở cánh đồng Bàu Đá, làng An Ninh thượng”.

Ngày 22/1/2018 Ủy ban nhân dân thành phố Huế tổ chức buổi tọa đàm, xác định địa điểm an táng Nguyễn Du với sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử: Đỗ Bang, Nguyễn Xuân Hoa, Trần Đại Vinh… Theo ông Dương Phước Thu, từ ngôn truyền của người đời trước, con cháu họ Mai Khắc và bà con ở Hậu Thôn, thuộc An Ninh hạ (nay là phường Kim Long, thành phố Huế) vẫn bảo vệ chỗ an táng cụ Du Đức hầu (tước của Nguyễn Du). Người dân Hậu Thôn vẫn coi đó là nơi linh thiêng, không ai dám xâm phạm. Ông Mai Khắc Chính (chắt nội của cụ Mai Khắc Đôn), cho hay: “Một lần, cha tôi (ông Mai Khắc Lưu) chỉ gò đất ở Bàu Đá nói rằng, đó là nơi an táng Du Đức hầu. Từ đó tôi luôn tâm nguyện giữ gìn khu đất này”. Các nhà nghiên cứu có mặt trong buổi tọa đàm hôm đó thống nhất: Việc tìm kiếm nơi từng an táng Đại thi hào Nguyễn Du tại Huế là việc làm cần thiết, tuy nhiên những cứ liệu khoa học ấy là chưa đủ, cần tiếp tục nghiên cứu để có thể khẳng định chắc chắn đó là nơi từng an táng Nguyễn Du. Kết luận tại buổi tọa đàm, ông Nguyễn Đăng Thạnh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế cho rằng: Buổi tọa đàm là cơ sở đầu tiên để tiến hành những bước tìm hiểu, nghiên cứu tiếp theo. Cần tổ chức hội thảo khoa học với sự tham gia của các nhà nghiên cứu về Nguyễn Du ở Việt Nam và nước ngoài để có thêm những cứ liệu lịch sử; tổ chức khảo sát, thăm dò, xác định chắc chắn nơi an táng mới tiến hành lập hồ sơ khoa học. Trước mắt, phường Kim Long cần giữ gìn, bảo vệ khu đất đang còn nghi vấn. Buổi tọa đàm đã gây được tiếng vang. Điều đó chứng tỏ nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du ở Huế được nhiều người quan tâm. Thực ra, điều ông Dương Phước Thu trình bày trong buổi tọa đàm hôm 22 /1/ 2018 đã được ông Trần Viết Điền công bố trên Tạp chí Sông Hương với tiêu đề Người Bàu Thôn vẫn lưu giữ “mộ vọng” cụ Nguyễn Du ở Huế (ra ngày 17/4/2015). Ông Trần Viết Điền vốn có bà con với con cháu dòng họ Mai Khắc ở Hậu Thôn nên biết khá tường tận dòng họ Mai Khắc và ngôi “mộ vọng”. Dòng Mai Khắc trước nguyên là Mai Bá, học hành thông minh nhưng chưa có ai đỗ đạt cao. Đến đời Mai Bá Hanh, cụ đi coi thầy, thầy phán: Nếu đổi Bá thành Khắc con cháu sẽ có người đỗ đại khoa. Cụ Hanh bèn đổi tên lót Bá thành Khắc cho các con. Quả như lời thầy phán, ông Mai Khắc Đôn (con trai cụ Mai Bá Hanh) thi đỗ đại khoa, sau trở thành sư phụ và nhạc phụ của vua Duy Tân. Theo ông Mai Khắc Chính thì ông Mai Khắc Đôn có mua 5 mẫu đất, nguyên gốc là đất công, được cấp cho một vị hoàng thân triều Nguyễn, đã giữ nguyên ngôi “mộ vọng” của cụ Nguyễn Du và mộ của Quý nhân Nguyễn Thị Trường (vợ vua Minh Mạng). Hơn nữa bà Quý nhân Nguyễn Thị Trường được táng gần phần đất có “mộ vọng” của cụ Nguyễn Du, chứng tỏ gia đình cụ Nguyễn Du đã chọn huyệt đất tốt với sự hỗ trợ của hoàng tộc triều Nguyễn. Giả thuyết này nghe ra có cơ sở hơn giả thuyết của ông Hồ Đắc Duy, song vẫn chưa có những bằng chứng đủ sức thuyết phục.

Ngôi mộ vọng ở Hậu Thôn, Kim Long, Huế


Việc tìm cho ra nơi an táng Nguyễn Du ở Huế một cách chính xác là điều gần như không tưởng, còn khó hơn cả “đáy bể mò kim”. Nhưng điều có thể khẳng định một cách chắc chắn là: Nguyễn Du mất ở Huế và an táng tại khu vực xã An Ninh, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long, thành phố Huế). Trong khi tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát, tổ chức hội thảo… tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế cần gấp rút lập dự án xây dựng khu tưởng niệm Nguyễn Du để dân chúng và khách du lịch trong ngoài nước sớm được tham quan, chiêm bái.

Có thể lựa chọn địa điểm sau:

Hậu Thôn, An Ninh hạ, phường Hương Long, thành phố Huế. Dọc theo đường Nguyễn Hoàng, qua cầu, rẽ phải, theo đường Lý Nam Đế khoảng 400m, đến nhà thờ dòng họ Mai Khắc ở Hậu Thôn, thẳng ra phía cánh đồng chừng 200m. Ở đây, đã có sẵn ngôi “mộ vọng” tương truyền của Du Đức hầu (Nguyễn Du). Bên cạnh là lăng bà Nguyễn Thị Trường (vợ vua Minh Mạng). Trong xóm Hậu Thôn có nhà thờ họ Mai Khắc. Cạnh nhà thờ họ Mai Khắc là ngôi nhà rường khá đẹp. Trong ngôi nhà rường có điện thờ ông Mai Khắc Đôn và bà Mai Thị Vàng (vợ vua Duy Tân)… Tất cả làm thành một cụm di tích lịch sử rất đặc biệt.

Công trình khu tưởng niệm Nguyễn Du có thể với quy mô vừa hoặc nhỏ, song nên có bức tượng Nguyễn Du (có thể phỏng theo bức tượng ở vườn lưu niệm Nguyễn Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh); ngôi mộ đơn sơ (có thể lấy nguyên mẫu ngôi mộ khi chưa sửa sang của Nguyễn Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh); văn bia khắc vắn tắt thân thế, sự nghiệp Nguyễn Du. Trồng vài khóm cúc, vài khóm lựu, vài khóm trà mi… (là những thứ hoa từng được Nguyễn Du nhắc đến trong Truyện Kiều).

Nếu có thể nên dựng bia, khắc những câu thơ của Nguyễn Du viết về Huế theo lối thư pháp, như: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu (Sông Hương một mảnh trăng/ Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu); Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh/ Giang bắc, giang nam vô hạn tình (Hương Cần dương liễu rập rờn xanh/ Bến bắc, bến nam vô hạn tình…); Cổ tự thu mai hoàng diệp lý/ Tiên triều tăng lão bạch vân trung (Chùa xưa lá thu vàng phủ kín/ Triều cũ tăng già bạc mây bông - Vọng Thiên Thai tự) ở các địa điểm: Công viên bên bờ bắc sông Hương, trước sân chùa Thiên Thai, phía nam cầu Hương Cần.

M.V.H  
(TCSH351/05-2018)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.