Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.
Nhà văn Tô Hoài và tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”.
Sự thành công ngoài mong đợi của Dế Mèn phiêu lưu ký bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Một trong số đó là sự kết hợp hài hòa giữa cốt truyện phiêu lưu và hình thức nhân cách hóa loài vật của tác phẩm, làm nên nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, trong đó có những tiếng cười đa sắc thái.
Tiếng cười hồn nhiên, tươi vui, sảng khoái
Trong văn học thiếu nhi, tiếng cười mang những giá trị quan trọng. Bởi đối tượng tiếp nhận trung tâm của văn học thiếu nhi là trẻ em. Đây là lứa tuổi cười nhiều, thích cười và có nhiều tiếng cười hồn nhiên, tươi vui, đáng yêu nhất. Nắm được đặc điểm tâm lí này, khi xây dựng những câu chuyện trên hành trình phiêu lưu của Dế Mèn, tác giả Tô Hoài đã lồng ghép vào đó rất nhiều tiếng cười vui vẻ, lạc quan, sảng khoái.
Đây là kiểu tiếng cười mang âm hưởng chủ đạo của tác phẩm. Khác với người lớn, cuộc sống qua lăng kính của các em luôn tràn ngập sắc hồng và rộn rã tiếng cười. Đối diện với nhiều thứ, trong đó có khó khăn, trẻ vẫn có thể mỉm cười. Mèn và Trũi là hai nhân vật tiêu biểu cho tiếng cười này trong tác phẩm. Trên hành trình khám phá thế giới, có lúc đôi bạn bị mất phương hướng, “bốn phía, vẫn mênh mông không thấy bến bờ nào hết”.
Lênh đênh trên sông nước cả ngày trời, vừa đói vừa mệt nhưng Mèn và Trũi vẫn cười một cách lạc quan. Mèn thì “vũ cánh múa càng, vừa múa vừa hát nghêu ngao”, còn Trũi thì “cười. Rồi Trũi cũng múa càng lên”. Biết rằng “vạn sự khởi đầu nan”, những chặng đầu tiên của hành trình phiêu lưu không hề suôn sẻ nhưng cả hai nhân vật đều không nao núng, luôn giữ tinh thần vững vàng để cùng vượt qua thử thách. Trong những lúc như thế, vũ khí đắc lực của các nhân vật chính là tiếng cười giòn giã, sảng khoái, đầy bản lĩnh.
Tiếng cười là yếu tố chính mang đến sắc thái tươi vui, lạc quan tác phẩm. Bên cạnh đó, những tiếng cười vui vẻ, yêu đời ấy còn mang cảm hứng tự hào. Điều này thể hiện rõ ở tiếng cười của các nhân vật khi làm được những việc tốt đẹp cho đồng loại, cho cuộc đời. Người đọc không khỏi xúc động với tiếng “cười rộ” của bác Xiến Tóc khi cứu được Mèn từ tay lão chim Trả và nhận ra chân lí cuộc sống “chán đời là tính xấu, kẻ chán đời nghĩ là ta cao thượng, nhưng thật không cao thượng mà chỉ là trốn việc và rong chơi”. Truyện cũng làm ta nhớ mãi về hình ảnh Dế Mèn “cười, sung sướng và cảm động” khi nghe những chia sẻ từ Kiến Chúa và họ lại cùng nhau đi kết nối thế giới. Thành công trong việc khắc họa những tiếng cười vui tươi, hào sảng, tác giả không những mang đến được nhiều niềm vui, yêu thương mà còn gửi vào đó nhiều bài học cuộc sống. Tiếng cười của các nhân vật nhờ đó trở nên đa nghĩa, đa sắc hơn, đồng thời để lại được nhiều ấn tượng sâu sắc hơn.
Hình ảnh Dế mèn gắn với tuổi thơ của nhiều bạn đọc nhỏ tuổi.
Tiếng cười mỉa mai, châm biếm, giễu cợt
Trên hành trình kết nối với “thế giới đại đồng”, ngoài những giây phút được cười hồn nhiên vui vẻ, Mèn và Trũi cũng không ít lần phải cười mỉa mai, châm biếm. Trong truyện, kiểu tiếng cười này được biểu hiện rất đa dạng. Đây không chỉ là tiếng cười của nhân vật, mà còn là tiếng cười của chính tác giả và của bạn đọc khi đối diện với cái xấu, cái ác, cái lạc hậu.
Đầu tiên là tiếng “cười thầm” của Mèn khi nghe anh Cả chỉ trích ý định “phiêu lưu” của Mèn. Anh Cả là nhân vật điển hình cho những người bảo thủ, “khư khư ôm nắm đất, đến mòn đời chẳng làm được gì để lấy tiếng thơm cho cha ông”, “mới dúm tuổi mà đã lụ khụ hơn cả người già lẫn cẫn”. Tiếng cười của Mèn chính là sự phê phán nhẹ nhàng những người cả đời an phận, chịu sống cuộc đời quẩn quanh, cho mình là giỏi, không chịu học hỏi, tiếp thu, mở mang kiến thức. Tiếng cười ấy cũng phần nào nói lên ở nhân vật này tính cách cương nghị, tinh thần cầu tiến, thái độ dứt khoát đoạn tuyệt với cái cũ lạc hậu, trì trệ.
Thông qua các nhân vật Mèn, Trũi, tác giả tiếp tục dành tiếng cười cho những nhân vật có tính cách “dốt mà hay khoe chữ”, “khuếch khoác”, tiêu biểu nhất là Cóc. Cóc hay dùng những lời lẽ sáo rỗng, khoa trương và cho rằng có thể “hô mưa, gọi gió” vì nghĩ mình “là cậu ông trời”. Lúc này, tiếng cười bật lên vừa mang tính giải trí vừa ẩn ý mỉa mai, giễu nhại. Các mức độ của tiếng cười được miêu tả tăng dần: “Trũi mỉm cười”, “Suýt nữa tôi bật cười thành tiếng”, “Chúng tôi nhắm mắt, nhắm mũi lại lăn ra cười”. Cùng tính cách với Cóc còn có nhân vật Ếch. Ếch “đã dốt lại còn tự đắc và dở hơi”, nói năng hóng hớt, hay cướp lời người khác, chuyện gì cũng cho rằng mình biết nhưng thực ra chẳng biết gì. Vì vậy, Trũi đã cười “Ha ha! Ếch ngồi đáy giếng”. Ở thời đại nào, trong xã hội nào cũng có những con người như vậy. Tiếng cười “ha ha!” của Trũi vì thế vừa là sự chế giễu và là tâm thế chiến thắng trước cái giả tạo, hình thức. Đây cũng là tiếng cười hả hê nơi bạn đọc trước cái bi hài trong truyện, một những thành công mà tác giả đã làm được khi đưa tiếng cười vào Dế Mèn phiêu lưu ký.
Trong Dế Mèn phiêu lưu ký, tác giả còn hướng tiếng cười mỉa mai đến các nhân vật đại diện cho kẻ cậy quyền thế ức hiếp người khác. Mèn đã “cười khểnh”, tỏ ý coi thường Bọ Ngựa bởi đó là “cháu đích tôn của cụ võ sư”, nên có tính kiêu căng, hống hách. Cuối cùng, Mèn cũng thắng Bọ Ngựa trong cuộc đấu võ, đấu trí. Lẽ đời những kẻ “thùng rỗng kêu to” hay những người “ỷ mạnh hiếp yếu”cuối cùng cũng sẽ nhận bài học đích đáng. Tiếng cười của Dế Mèn không chỉ là thái độ khinh bỉ mà còn là sự cảnh tỉnh đối với cái ác. Và khi cái ác thất bại trước cái tốt đẹp, tiếng cười trở nên ý nghĩa hơn. Đó là giá trị ngoài tiếng cười, sau tiếng cười độc đáo mà tác giả đã làm được khi xây dựng các nhân vật của mình.
Trong những chuyến phiêu lưu của mình, Mèn còn cười những kẻ ăn chơi, gian ác. Mèn “cười thầm” lão chim Trả đã “già mà hay làm đỏm trái mùa. Đã hóp má rồi mà lại hay tỏ vẻ hơ hớ trai tơ”. Cái vẻ bên ngoài của lão thật là diêm dúa, “bụng trắng, lưng xanh thắt đáy, đôi cánh nuột nà biếc tím. Chân lão đi đôi hia đỏ hắt”, cặp mỏ thì “đen quá, dài quá, xấu quá”. Dù lão có cố điệu đà vẫn không che lấp được bản chất ranh mãnh, độc ác bên trong. Chim Trả hay ăn thịt các loài cá, thường xuyên lừa và cướp nhà của Chuột, bắt Mèn về làm quản gia cho hắn. Thông qua tiếng cười ấy, tác giả phê phán kiểu người mánh khóe, những kẻ hay áp bức người khác. Tiếng cười của Dế Mèn vì thế mang ý nghĩa xã hội rất rõ nét.
Tiếng cười của tình yêu thương
Không chỉ có tiếng cười chế nhạo, mỉa mai, trong truyện còn có những nụ cười của tình yêu thương nơi các nhân vật mang lý tưởng cao đẹp. Tiêu biểu là tiếng cười an ủi, cảm thông của nhân vật Dế Mèn khi biết nguyên nhân dẫn đến sự chán chường, tuyệt vọng nơi Xiến Tóc. Cũng như Dế Mèn ngày trước, bác Xiến Tóc từng bị bọn trẻ con thành phố bắt để làm trò tiêu khiển. Không còn tự do và chứng kiến sự mất mát của đồng loại, cả Mèn và Xiến Tóc đều bị sốc. Nhưng Mèn vượt qua được còn Xiến Tóc từ đó đã sống trong nỗi ám ảnh, sợ hãi và buông thả bản thân. Gặp Xiến Tóc từ trước, biết bản chất của bác ấy không phải người vô trách nhiệm nên Mèn chỉ “lắc đầu mỉm cười”. Khác với tiếng cười nhằm vào Cốc, Ếch, Bọ Ngựa hay Chim Trả, tiếng cười lần này của Dế Mèn không còn sắc thái mỉa mai, khinh bỉ hay phê phán. Ở đó chỉ còn lại niềm thương xót, cảm thông với đồng loại, với những ai từng cùng cảnh ngộ với mình. Đây là tiếng cười của Dế Mèn sau bao ngày trải nghiệm cuộc đời đã thực sự trưởng thành, là tiếng biết đồng cảm, chia sẻ, thương yêu, bao dung, biết nhìn nhận sự việc ở nhiều chiều hướng khác nhau. Đây cũng là một bài học làm người hay và thấm thía mà nhà văn Tô Hoài muốn gửi đến các bạn nhỏ.
Bên cạnh tiếng cười của Mèn và Trũi, trong truyện Dế Mèn phiêu lưu ký còn có tiếng cười của những nhân vật khác: Tiếng cười “ha ha!”, “khanh khách” kiêu ngạo của bọn trẻ em thành phố khi tìm thấy Dế Mèn, tiếng “cười khẩy” đầy nhu nhược của anh Cả khi nghe ý định đi ra ngoài để khám phá thế giới của Mèn, tiếng cười “khà khà” ranh ma của lão chim Trả… Đây là những tiếng cười mang sắc thái tiêu cực. Tuy nhiên, thông điệp của tác phẩm là gửi đến các em nhỏ những giá trị tốt đẹp về tình yêu thương, lòng khoan dung, niềm tin yêu vào cuộc sống, nên tác giả đã không tô đậm những tiếng cười ấy mà chỉ dừng lại ở miêu tả sơ lược. Do đó, tiếng cười đắc ý của những thế lực xấu xa không có nhiều dịp để được cất lên trong tác phẩm này. Đây là một trong những đặc trưng của truyện đồng thoại Việt Nam mà Dế Mèn phiêu lưu ký là tác phẩm mở đầu đã thể hiện một cách rất tiêu biểu.
Có thể thấy, tiếng cười trong Dế Mèn phiêu lưu ký thật đa dạng với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau. Ở mỗi tiếng cười, bên cạnh niềm vui là những thông điệp, bài học nhẹ nhàng mà tác giả thông qua các nhân vật loài vật gửi gắm đến bạn đọc nhỏ tuổi của mình. Trong tác phẩm, tiếng cười không còn là một hiện tượng sinh lí mà được thể hiện một cách sinh động như một hiện tượng xã hội, trở thành những tín hiệu mang nhiều giá trị độc đáo. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công, sức hấp dẫn cũng như sức sống bền bỉ của Dế Mèn phiêu lưu ký, không chỉ ở Việt Nam mà cả trong nền văn học thiếu nhi thế giới.
Theo Trịnh Bích Thùy - GD&TĐ
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.