Khi trái đất không nhất thiết phải có con người

07:48 26/05/2017

LÊ MINH PHONG

(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).

Có lẽ người Mỹ sẽ không bao giờ quên được những mất mát, những đớn đau bởi các thảm họa thiên tai như bão Galveston (1900), bão Katrina (2005), bão bụi ở Great Plains (1930); hỏa hoạn và động đất ở San Francisco (1906), cháy rừng ở Peshtigo (1871), v.v. Người Nhật Bản cũng sẽ nhớ mãi những tiếng thét của đồng loại trong thảm họa động đất và sóng thần ngày 11/3/2011. Người Trung Quốc sẽ không thể tưởng tượng ra được một khung cảnh khủng khiếp hơn trong trận động đất ở Tứ Xuyên năm 2008. Và người dân miền Trung (Việt Nam), cho đến nay, nỗi đau vì Sự cố Formosa vẫn chưa hề nguôi ngoai, nước mắt vẫn đang chát mặn trên những gò má xanh xao của họ.

Sau những nỗi đau ấy của trái đất, nhân loại đã không ngừng cố gắng để gượng dậy; mỗi người, mỗi ngành đều tìm cách để hàn gắn vết thương cho mình và cho cả tha nhân. Nghệ thuật của nhân loại từ điện ảnh đến văn chương, từ hội họa đến âm nhạc, cũng đã cất lên những tiếng nói của mình trong việc làm hồi sinh môi trường sống và cảnh báo về những thảm kịch có thể sẽ tái diễn...

Trên thế giới, nghệ thuật lấy cảm hứng từ mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên đã trở thành một trào lưu rộng lớn, và phê bình nghệ thuật cũng theo chiều hướng đó đã có những vén mở về những chân trời mỹ học khác. Ở Mỹ, manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20, đến giữa thập niên 90, Phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học khả dụng và lan tỏa biên độ của nó tới các quốc gia khác. Ở Việt Nam, trong khi các hệ thống lý thuyết phê bình được các nhà nghiên cứu quan tâm rất sớm như: Hình thức luận của Nga (Formalism), Cấu trúc luận (Structuralism), Hậu cấu trúc luận/Giải cấu trúc (Poststructuralism/Deconstruction), Các lý thuyết Mác-xít (Marxist Theories), Phân tâm học (Psychoanalysis), Nữ quyền luận (Feminism), Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) v.v thì ngược lại, dường như Phê bình sinh thái (Ecocriticism) lại bị “hắt hủi”. Có lẽ chúng ta đã quá nặng về “Nhân loại trung tâm luận” mà quên đi căn nền lưu trú của chúng ta: “Sinh thái trung tâm luận”.

Công trình “Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương” của nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Tịnh Thy ra đời trong bối cảnh hôm nay đã góp phần làm sống động hơn cho phê bình sinh thái vốn mờ nhạt ở Việt Nam, góp phần đưa phê bình văn học Việt Nam tiếp cận với các trào lưu, lý thuyết phê bình khả dụng vào thực tiễn đời sống của thế giới. Công trình này được chia làm bốn chương. Thông qua mỗi chương sách tác giả lần lượt giới thiệu và làm sáng tỏ các nội hàm của những thuật ngữ liên quan tới phê bình sinh thái. Đi tới tìm hiểu căn nguyên ra đời, sự lan tỏa của lý thuyết và khả năng hứa hẹn vén mở về mặt thẩm mỹ trong nghệ thuật của phê bình sinh thái. Với những diễn giải sáng rõ, chương trước làm tiền đề cho chương sau, chuyên luận bắt đầu bằng sự giới thiệu các khái niệm tiền đề cần nắm trước khi đi vào lãnh địa của phê bình sinh thái như: Sinh thái - sinh thái học, Ý thức sinh thái, Triết học môi trường, Triết học sinh thái, Luận lý học sinh thái, Chủ nghĩa nhân loại trung tâm, Chủ nghĩa phi nhân loại trung tâm, v.v. Sau những giới thiệu về các khái niệm tiền đề căn bản, tác giả luận giải về văn học sinh thái thông qua giới thiệu các thuật ngữ tương cận trước khi đi vào khái niệm văn học sinh thái và các đặc trưng của văn học sinh thái. Để chứng minh đề tài sinh thái luôn có sức lôi cuốn người sáng tạo, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã dụng công giới thiệu mười tác phẩm văn học sinh thái kinh điển mà bạn đọc Việt Nam ít ai biết tới như: tiểu thuyết Frankenstein của tác giả Mary Shelley (1818), Niên giám xứ cát của Aldo Leopold (1949), du ký Cư dân của tuần lộc của Farley Mowat (1952), tập tản văn Walden của Henry David Thoreau (1854), Cội rễ của bầu trời của Romain Gary (1956), v.v.

Theo đánh giá của chúng tôi thì chương 3 “Phê bình sinh thái” là chương tác giả đã dụng công nhất. Luận giải các vấn đề phức tạp và đa dạng của phê bình sinh thái, tác giả đã lựa chọn một thứ văn phong giản dị và sáng tỏ để làm rõ những khái niệm, những quan điểm đồng dạng và dị biệt về phê bình sinh thái và những đặc trưng của phê bình sinh thái. Đặc biệt, tác giả không chỉ nêu ra các quan điểm, các định nghĩa khác nhau về phê bình sinh thái trên thế giới mà còn đi vào phân tích, đối sánh các định nghĩa, chỉ ra những giới hạn và cả tính ưu việt trong mỗi định nghĩa, mỗi khái niệm. Sau khi đi vào nêu rõ các định nghĩa, phân tích, đối sánh và chỉ ra tính ưu trội cũng như khiếm khuyết trong các định nghĩa của Joseph Meeker, James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfelty, Vương Nặc, v.v, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã đề xuất định nghĩa phê bình sinh thái trong quan niệm của mình như sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái thông qua việc khám phá thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm.”

Trong chương 3, các đặc trưng của phê bình sinh thái được tác giả chuyên luận trình bày một cách sáng rõ và dễ nắm bắt. Theo tác giả thì phê bình sinh thái đã hấp thu các tiền đề lý luận của nhiều ngành khoa học khác nhau, nó có những đặc trưng như: chú ý đến định hướng đạo đức sinh thái, đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ góc nhìn sinh thái, giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm, có tính liên ngành, thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thông qua “tính văn học”. Nằm trong dòng phê bình văn học mang cảm quan hậu hiện đại, theo tác giả: “Nội hàm căn bản của phê bình sinh thái là tính giải cấu trúc mạnh mẽ, biểu hiện ở các đặc điểm lệch tâm, tản quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại.” Lịch sử phát triển của phê bình sinh thái cũng được tác giả nỗ lực khái quát một cách công phu với một thái độ làm việc cẩn trọng và chuyên nghiệp. Từ đây, người đọc có được một bức tranh vừa toàn cảnh vừa chi tiết về những chặng đường mà phê bình sinh thái đã đi qua cũng như những thành quả mà nó đã đạt được.

Với những khai mở, cống hiến, đây thực sự là một cuốn sách nền tảng cho những ai muốn tìm hiểu về lý thuyết phê bình sinh thái cũng như thành quả của nó ở Việt Nam. Theo chúng tôi, cuốn sách không chỉ dành cho các bạn đọc thuần túy, mà ngay cả các nhà phê bình văn học, khi muốn tìm hiểu về phê bình sinh thái thì đây cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích.

Đánh giá về công trình này, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy cho rằng: “Chuyên luận phê bình sinh thái của Tịnh Thy giới thiệu khá đầy đủ về lý thuyết, nguồn gốc, phát sinh, phát triển, sự khác nhau về các quan niệm, quan điểm của phê bình sinh thái… Bằng những phân tích, nhận định tinh tế sắc sảo, Tịnh Thy đã làm sống động các vấn đề lý thuyết phức tạp vốn rất dễ trở thành tiêu bản, đồng thời chứng minh tính hiệu quả của lý thuyết ấy bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, độc đáo mà các lý thuyết phê bình tiền hiện đại, hiện đại khó nhận ra, thậm chí khó thừa nhận.”

Để thuyết phục người đọc hơn, tác giả chuyên luận đã dành chương cuối cùng của công trình để đi vào thực hành phê bình các tác phẩm văn học dưới sự rọi chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái. Đối tượng mà tác giả chuyên luận lựa chọn khá đa dạng và rộng mở, không thuộc duy nhất một nền văn học cụ thể của một quốc gia hay một giai đoạn văn học. Điều này cũng xuất phát từ tính liên ngành, liên văn hóa của phê bình sinh thái. Đối tượng được tác giả chuyên luận hướng tới là bộ ba truyện ngắn: Kiến và người, Mối và người, Nhện và người và tiểu thuyết Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên; Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê; Thơ Haiku Nhật Bản; Totem sói của Khương Nhung. Với mỗi đối tượng nghiên cứu, Nguyễn Thị Tịnh Thy có cách tiếp cận riêng biệt. Tác giả đã đi sâu vào thế giới của mỗi nhà văn để làm rõ đặc trưng lối viết nghiêng về tư tưởng sinh thái của họ. Từ đó, người đọc thấy rằng tiếng nói của nghệ thuật trong việc lấy lại màu xanh cho trái đất là không kém phần quan trọng so với tiếng nói của các ngành khoa học khác. Với bộ ba truyện ngắn của Trần Duy Phiên, tác giả cho rằng đó là những tác phẩm văn học sinh thái hiếm hoi góp phần khỏa lấp mảng trống của dòng văn học này trong văn học Việt Nam đương đại. Sáng tác của Trần Duy Phiên là văn chương sinh thái đích thực, nó nằm ngoài sự thờ ơ của các nhà văn Việt Nam trước vấn đề sinh thái. Đánh giá về Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê, tác giả cho rằng tất cả những yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đều thể hiện tâm huyết chuyển tải những vấn đề liên quan đến thời sự về môi trường đang diễn ra từng ngày ở nước ta, góp thêm một tiếng kêu cứu từ rừng xanh, cho rừng xanh… Dưới nhãn quan phê bình sinh thái, tác giả đã đưa đến cho người đọc những góc nhìn khác về tác phẩm Tôtem sói, đứng từ sinh thái trung tâm luận. Tôtem sói Khúc hoan ca của đại tự nhiên, là Khúc tụng ca về sói thảo nguyên, là Khúc tráng ca về sự sinh tồn, là Khúc bi ca tiễn biệt thảo nguyên… Đồng thời trên quan điểm “đối thoại”, tác giả còn phản biện vấn đề dân tộc học được luận giải thông qua tự nhiên học của nhà văn Khương Nhung.

Hiện nay trên Youtube đang lưu hành một đoạn video ngắn, trong đoạn video đó người ta đã đưa ra một giả định rằng “Trái đất sẽ ra sao sau khi con người biến mất.” Và sau đây là câu trả lời từ chính đoạn video ấy: “Sau khi con người rời khỏi trái đất hoàn toàn, trong vòng 24 đến 28 giờ điện sẽ tắt. 3 ngày sau, tàu điện ngầm sẽ bị ngập. 10 ngày sau khi con người biến mất, vật nuôi sẽ chết, hoặc chúng phải sống trong luật rừng của những nhóm vật nuôi ăn thịt. Một tháng sau sẽ xuất hiện hàng loạt vụ nổ hạt nhân cày nát bề mặt trái đất. Động vật sẽ chết vì ung thư. Một năm sau, vệ tinh hay bất cứ cái gì loài người gửi lên không gian đều sẽ rơi xuống. 25 năm sau, đường phố sẽ được phủ kín bởi những thảm thực vật và nhiều thành phố sẽ chìm trong cát. Thiên nhiên sẽ phá hủy mọi thứ mà con người đã tạo nên. 300 năm sau, tháp Eiffel sẽ sụp đổ, hay bất cứ công trình nào làm bằng thép, kim loại cũng sẽ sụp đổ trước sức mạnh của thiên nhiên. Đầm lầy bắt đầu trở nên phổ biến, các loại sinh vật sẽ sinh sôi. 500 năm sau sẽ không còn các dấu vết của những thành phố hiện đại. Và rừng sẽ thay thế mọi thứ. 10000 năm sau, những gì chứng minh con người đã từng tồn tại là các công trình bằng đá như Kim tự tháp, Vạn Lý Trường Thành, các vị tổng thống bằng đá ở Hoa Kỳ... 50 triệu năm sau, chỉ còn lại vài mảnh chai nhựa, mảnh thủy tinh của con người và chúng sẽ hoàn toàn biến mất sau 100 triệu năm. 300 triệu năm sau khi con người biến mất, sẽ chẳng có bất cứ một cái gì của con người còn sót lại trên trái đất. Nếu các sinh vật ngoài hành tinh đến trái đất sẽ chẳng bao giờ biết được rằng chúng ta đã từng tồn tại. Trái đất sẽ được trở về với sinh khí vẹn toàn của nó.”

Như vậy con người cần Trái đất để sống, để mơ mộng và sáng tạo, để yêu thương, để cống hiến… chứ Trái đất không nhất thiết cần đến con người. Con người đã gây ra trăm nghìn vết thương cho Trái đất nhưng Trái đất sẽ tự hồi sinh. 300 triệu năm để hồi sinh đối với Trái đất không phải là khoảng thời gian quá lớn. Trong khi mọi ngành đang quan tâm tới sinh thái toàn cầu thì Phê bình văn học Việt Nam, thiết nghĩ, không thể chậm hơn được nữa.

L.M.P  
(TCSH339/05-2017)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.