NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Hắn câu cá bên bờ sông, trên một dải đất vươn ra lởm chởm đá, mọc vài cây bạch dương thưa thớt, có thể đứng vài người, nhưng lúc ấy chỉ có mình hắn.
Minh họa: Nhím
Tới nơi lúc sáu giờ sáng, sớm hơn thường lệ vì đó là chủ nhật trước ngày lễ, hắn sợ bọn đi câu sẽ kéo tới đông. Mùa này cá về nhiều, hắn câu một loại cá thuộc họ trout nhưng lớn và dài hơn, dữ hơn, ở chỗ dòng nước xiết, muốn thế phải ra ngoài xa. Khi mắc câu, lũ cá này chiến đấu quyết liệt. Bọn người đứng trong bờ không thể câu loại cá ấy.
Hắn rút đồ nghề ra, sửa soạn hộp mồi nhựa, hộp mồi giun đất sống, các lưỡi câu, kiểm soát dây câu, cần câu, mặc thêm cái áo khoác mỏng. Gió thổi, se lạnh, ngửa tay hứng vừa vặn một giọt mưa tròn, ấm, hắn biết trời sẽ mưa, nhưng cũng còn khá lâu. Đây là đoạn phía dưới chiếc cầu bắc ngang sông, cầu sắt đen dành cho xe lửa, có thể đi bộ, nhưng vùng này rất vắng, họa hoằn lắm mới có một gã đi câu băng sông thử vận may ở phía bờ kia. Nhưng hắn biết bờ bên này có nhiều cá hơn, đúng loại hắn muốn. Hắn kéo cao cổ áo, lôi từ trong túi thức ăn lunch box ra ly cà phê nóng cappuccino mua từ trạm xăng, nắp vặn chặt. Thả dây câu xuống, có phần lơ đãng, đang tận hưởng cái ấm áp thi vị trong buổi sáng mùa xuân mưa còn lắc rắc nhưng trời ấm dần, hắn nhìn thấy họ.
Từ xa hắn nhận ra đó là một người đàn ông cao lớn đi chậm chạp trên cầu từ bờ bên kia, và một người đàn bà thấp hơn, mảnh khảnh, đi ngược chiều với ông ta, từ phía bờ sông hắn ngồi. Người đàn ông mặc áo khoác kiểu thể thao màu tối sẫm, người đàn bà mặc áo len turtleneck cao cổ, không nhìn rõ màu. Họ đi ngược chiều nhau, chậm chạp tới gần, đứng im nhìn nhau một lúc, ôm lấy nhau thật chặt như hai người bạn lâu ngày không gặp rồi buông ra, và cùng đứng tựa vào thành cầu, cúi nhìn xuống phía hắn ngồi.
Nhìn chăm chú những cử chỉ của hai người, từ xa, có thể đoán họ đang im lặng. Có lẽ họ không nhìn thấy hắn, vì chỗ hắn đứng hơi khuất sau hai cây bạch dương và một bụi dâu lớn. Họ đứng trên cầu nhìn xuống mặt nước một lúc lâu, rồi người đàn ông khẽ xoay người, hướng về người đàn bà, cúi đầu xuống, người đàn bà thấp nhỏ chậm chạp ngửa mặt lên. Họ sắp sửa hôn nhau, hắn nghĩ, khẽ mỉm cười, ánh mắt hắn không rời khỏi thành cầu.
Khi họ hôn nhau, mưa bắt đầu rơi trên mặt sông, mới đầu rơi lấm tấm, rơi từng giọt từng giọt như từ trên mái tranh ngày xưa của mẹ hắn, nhỏ tí tách xuống dòng nước trước thềm nơi em gái vòi vĩnh bắt hắn xếp thuyền giấy thả xuống, có gắn một mẩu xà phòng hiệu Bông Lan ở đuôi thuyền làm chúng chạy nhanh hơn, mưa càng to thuyền giấy của chúng càng trôi vun vút, có khi mất tiêu làm đứa em gái khóc ré lên, cái con bé rất hay làm người khác bực mình, mới đầu mưa tỏa những vòng sóng trên mặt sông rộng yên tĩnh, về sau mưa rơi nhanh quá, rơi vun vút, nước nhấp nhô thành sóng cao, rồi mưa bôi xóa tất cả đất trời như một bức màn trắng, từ chỗ hắn ngồi nhìn lên hai người trên cầu kia không còn thấy rõ.
Mưa mỗi lúc một to, gió tạt mạnh, cuốn những lá phong lá bạch dương xoay vòng. Hắn kéo cái zipper lên, nâng cao hết mức cổ áo khoác, đứng thẳng, bấm ngón tay giữ chặt dây câu rồi văng mạnh tay, ném mồi ra thật xa, phía trên dòng nước, kéo rê dây theo dòng nước, kiểm soát ròng rọc, nhắp cần câu, thăm dò sức căng, rình những cái đớp mồi của cá.
Bọn cá này rất tinh khôn, chúng thường thử nhắp mồi trước, hồi lâu, ít khi chịu cắn ngay. Khi chúng cắn, lập tức quẫy đuôi kéo đi, dây câu căng thẳng, cần cong vút, tay cầm nặng chịch. Bọn cá rất nặng cân, mạnh mẽ, khi bị mắc câu trở nên hung dữ, thật ra cũng như con người, khi họ sợ hãi bao giờ cũng trở nên hung dữ, và khi hung dữ là lúc họ sợ hãi nhất, bọn cá lại đi từng đàn, thi nhau rỉa cắn làm đứt mồi, hoặc cắn đứt dây tha luôn móc câu mang đi. Nếu bạn muốn giữ cho chúng mắc câu thật lâu, phải đi dọc theo bờ nước, đôi khi phải chạy qua những bụi rậm và những bãi đá rêu trơn trượt. Té ngã hay trầy xước là chuyện thường. Dây câu bây giờ căng thẳng. Cần câu rung bần bật. Chờ cho dây rút xuống thẳng băng dưới mặt nước, hắn rùn tay lại, nghiêng người đi, bước chậm chạp ngược chiều nước chảy, giữ cho lưỡi câu tiếp tục bị cắn chặt. Hắn chuẩn bị kéo. Con cá này phải lớn lắm. Chắc thế.
Một tiếng động lớn vang lên trước mặt hắn, chỗ dòng nước chảy xiết. Một người đã nhảy từ trên cầu xuống. Biến mất ngay giữa những vòng xoáy sâu. Hắn hất cái cần câu xuống đất, để mặc cho con cá kéo đi phăng phăng, cởi áo khoác, định để nguyên quần áo nhảy xuống. Hắn nhớ rằng mình bơi không giỏi, sẽ đuối sức nếu không bơi đúng hướng, và có thể nạn nhân đã trôi xa hơn hắn tưởng, hay ngược lại, mắc vào một vật và dừng lại. Hắn nhìn chăm chú xuống mặt sông, tìm dấu hiệu, như một cánh tay đưa lên. Tuyệt không tăm tích. Chỗ này nước chảy xiết quá. Hắn đâm luống cuống. Hắn quay người chạy theo dải đất vào bờ, định chạy dọc bờ sông, xuôi dòng, hy vọng thấy được dấu vết. Hắn vấp phải dây câu, đang bị kéo căng, quấn luôn vài vòng, té ngửa. Lòm còm ngồi dậy, hắn nhìn lên. Trên cầu chỉ còn lại một người. Người đàn ông cao lớn, áo khoác màu đen sẫm, đứng bất động cúi đầu nhìn xuống, cái bóng phủ lên nền trời mù mù nhiều mây. Và hắn nhận ra đây là lần thứ hai hắn trông thấy ông ta, không, hắn trông thấy cả hai người. Lần thứ nhất, cách đó bảy năm. Người đàn ông và người đàn bà ấy, chính là họ, đang đứng bên nhau, từ trên cao nhìn xuống, và hắn đứng trên bãi cát mịn vàng óng ánh dưới chân cầu, đang mãi ngắm những con chim hải âu bay lượn, khi tình cờ ngẩng lên, hắn nhìn thấy người đàn ông đang xoay mặt về phía người đàn bà, cúi đầu xuống, người đàn bà chậm chạp ngẩng đầu lên, họ sắp sửa hôn nhau, trên một chiếc cầu khác, cao hơn, ở một xứ sở khác, tất nhiên, rất xa, khi họ hôn nhau thì mưa bắt đầu rơi xuống trên mặt sông.
N.Đ.T
(SHSDB27/12-2017)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.