Khi đường vào văn chương là những mê lộ mới

08:56 03/01/2012
VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

tranh Picasso, nguồn internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong cuộc chơi mới của mình, dù muốn dù không, để thực sự có thể định danh là người chơi mới, nhà văn cũng phải bội ước với một số giá trị đã đóng khung trong truyền thống. Đó như là một quy luật tất yếu và cũng là cách thức để nghệ thuật hướng thượng.

Tiếp xúc với tập truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông, chúng tôi nhận ra có những dấu vết của cảm quan văn chương hậu hiện đại, văn chương của thời chơi mới. Sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là tấm gương phản ảnh một cách trung thực ngoại giới, mà trong những núi rừng nhiệt đới sáng tạo, nhà văn đã nhìn lại khuôn mặt của mình, để thấy những góc cạnh khác, từ đó bước vào kiến giải những bề khuất lấp trong chốn tiềm thức, những miền sâu thẳm trong thế giới tâm hồn. Văn chương Nguyễn Vĩnh Nguyên đã khước từ hiện thực để làm một cuộc nội soi quyết liệt vào chính bản thể của người sáng tạo, và những ý‎ niệm trên văn bản của tác phẩm từ đó mà sinh ra. Trong thế giới của chữ mọi giá trị đều được cào bằng, nhất là những quyền lực bên ngoài chữ mà truyền thống đã vững tin theo. Đến với thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, chỉ có chữ là tất cả. Chữ sinh lời, đẻ biểu tượng làm sinh động những ám dụ. Những phát ngôn trở nên không còn thứ bậc trong một hệ hình (paradigme) mới, tất cả đã được làm phẳng, mọi tiếng nói đều có quyền cất lên,  chen vai hích cánh nhau làm nên tác phẩm. Sự hoài nghi bao trùm lên toàn bộ tác phẩm trong tập truyện. Nhân vật có những hành vi phá vỡ quy tắc đã được găm sâu trong lí tính. Sự đổ vỡ của trật tự đời sống trong truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông hay những những sự vụ tưởng chừng như chỉ có trong miền hoang tưởng đi vào tác phẩm như một ám dụ về hiện thực trong “Chữ bay” hay “Chìa khóa của người ăn từ điển”. Đó là những minh chứng rõ ràng làm cho những thang giá trị cũ, của kiểu phản ánh như thực ngoài đời từng tồn tại trong truyền thống, giờ đã đổ vỡ. Không khó để nhận thấy con người trong thế giới chữ của Nguyễn Vĩnh Nguyên là những thân phận đứng trước sự tan tác của trật tự đời sống, trở nên bơ vơ, lạc loài, vong thân. Tâm trạng hoài nghi, sự bất an bủa vây họ. Không còn tin tưởng vào đời sống bên ngoài đã đẩy con người đi đến giới hạn tột cùng của sự hoài nghi: “Sẽ không một tiếng kêu cứu nào kịp thoát ra. Tất cả sẽ biến mất. Những ‎ý nghĩ trong đầu cũng biến mất” (Bản tường trình kèm theo những tra cứu khác nhau xoay quanh một sự cố không khớp). Đó chính là sự đả phá lí tính, vì lý tính giờ đây là cái cần phải đả phá, thứ lý tính nô lệ, tôi đòi, bầu lên xã hội kỹ trị tù đày con người, sự đánh mất hiện hữu của thân xác và sự vắng mặt của tâm thức thời hậu hiện đại được Nguyễn Vĩnh Nguyên kêu gọi về trong tác phẩm.

Người đọc can dự vào văn bản cũng chính là lúc anh ta tham dự vào một cuộc chơi, một cuộc chơi hoàn toàn mới với những điều luật mới, luật chơi của sự đồng sáng tạo sẽ đưa người đọc đi về muôn nẻo, có khi còn là nẻo ngược chiều với sự sắp đặt ban đầu của tác giả. Bút pháp của Nguyễn Vĩnh Nguyên là một minh chứng cho một kiểu dạng văn chương mới đã hiện tồn trong văn học đương đại hôm nay. Hiện thực trong văn bản không còn là sự trình chiếu hình ảnh ngoại giới mà là những yếu tố cấu trúc nên từ tâm thức chủ quan của chính nhà văn. Nhà văn không còn vấn vương với những đường xưa lối cũ trong thi pháp văn chương hiện thực trước đây. Tất cả, hầu như mất dấu trong toàn bộ tập truyện ngắn này. Chính bởi thế, mà người đọc khó lòng tri nhận một hình ảnh, một khuôn mặt, một sự kiện nào đó một cách trọn vẹn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tác phẩm không còn nhiệm vụ là những đại tự sự phải vẽ cho đúng, cho hết khuôn mặt của hiện thực, những thông điệp mang tính phổ quát cũng không hề xuất hiện, và không cần phải xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Vì sự thực, làm gì có một thế giới khách quan phổ quát, thế giới chỉ là những mảnh vỡ, của tôi, do tôi và được tôi cấp nghĩa mà thôi. Nói như Einstein, thế giới như tôi thấy, nên luôn mang tính tương đối. Rất buồn cười nếu một ai đó cứ cố công – cái công dã tràng, đi tìm sự sai biệt, lệch chuẩn của văn bản và hiện thực để xem đó như một sự mắc lỗi của nhà văn. Ở đây, xin nhớ cho, trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, tính ngụy tạo bao trùm câu chữ.

Nếu đối sánh với những dạng thức kết cấu trong văn chương truyền thống, chúng ta sẽ thấy ngay rằng Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông là tập truyện ngắn có những đột phá mới trong kết cấu. Đôi khi sự vượt phá này khiến người đọc mang những vết hằn truyền thống khó chịu và hoài nghi rằng một kiểu kết cấu bị vỡ vụn như thế liệu có bao hàm hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó hay không. Tính chất đa trị, xu hướng giải nhân cách hóa, giải thiêng, xem thế giới như là một hỗn trạng không hơn không kém đã đưa truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên tiến tới xô ngã và làm đỗ vỡ, gãy vụn kiểu kết cấu theo dòng logic sự kiện và sự trôi lăn theo quy luật nhân quả của các chi tiết có trong kết cấu văn chương cũ. Dạng thức kết cấu chúng tôi muốn nói tới trong truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên đó là dạng kết cấu lắp ghép, phân mảnh - một món ăn khoái khẩu của các nhà văn hậu hiện đại. Đứng trước một không gian thế tục hỗn độn, một không gian “thậm phồn” (mượn chữ Hoàng Ngọc –Tuấn), nội tại văn bản nếu như muốn chuyển tải cả một quái trạng khổng lồ theo màu sắc nguyên y như ngoại giới chắc chắn sẽ trở nên chật chội, và khát khao xác tín hiện thực là bất khả. Kết cấu lắp dựng trở thành phương thức nghệ thuật đắc dụng của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tính chất lắp ghép trước hết hiển lộ ngay trên bề mặt tác phẩm. “Những tia chớp hay vệt truyện facebook” là một truyện ngắn tiểu biểu cho kiểu kết cấu này. Tác giả chia truyện ngắn thành 14 đoạn (cũng có thể xem đó là 14 truyện chớp) được đánh số thứ tự, mỗi đoạn có một dung lượng khác nhau và nội dung mỗi đoạn cũng chuyển tải những ý tưởng khác nhau. Không có một sự nối kết nào giữa các đoạn, hay nói đúng hơn không có một phép tu từ nào xuất hiện để nối kết, nếu như có thì cũng là những kết nối ngầm ẩn. Tất cả sự hỗn mang đó tạo thành một chỉnh thể. Nhà văn thực sự chơi khăm khi cuối tác phẩm này anh ta viết: “Thành thật xin lỗi độc giả.” Người viết muốn gì? Lẽ nào anh ta muốn nhìn những khuôn mặt cau có của người đọc vì khó chịu trước trò chơi ngôn ngữ tưởng chừng như vô trách nhiệm của người sáng tạo? Thế giới của những Ý niệm vẫn mãi là những sợi dây ngầm ẩn bên dưới trò chơi và luật chơi. Ở đây chúng ta có quyền đọc một cách lộn xộn không theo thứ tự của từng phân đoạn. Có thể xáo trộn chúng tùy theo hứng thú của chúng ta. Không có một luật chơi cố định nào cả. Và cũng không ai có đủ thẩm quyền để thảo ra một luật chơi cố định khi thế giới đã trở nên ngụy tạo. Luật chơi hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của những ai can dự vào trò chơi. Phải chăng thế giới ngoại tại đã bị bóp méo, xáo trộn? Sự thức nhận ngoại giới hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của chủ thể nhận thức. Kiểu kết cấu lắp ghép này được Nguyễn Vĩnh Nguyên triển khai trong nhiều tác phẩm khác. Nó tương đương như một trò chơi xếp hình. Toàn thể bức tranh cần tìm được tạo nên bởi những mảnh vỡ nhỏ đặt xa nhau. Khi người đọc, kẻ can dự vào trò chơi, tìm được tổng thể bức tranh thì đó cũng là lúc anh ta đã chiến thắng trong trò chơi. Người đọc chính là người khoác ý niệm lên cho mỗi cuộc chơi. Sau mỗi cuộc chơi sự sản sinh ý niệm sẽ xảy ra và thậm chí sự sản sinh ý niệm về tác phẩm là vô cùng vô tận. Khả năng tri nhận, kiến thức liên văn bản của người đọc càng rộng thì ý niệm sản sinh sau mỗi một lần đọc tác phẩm càng lớn. Trong chiều sâu của nó có thể diễn giải rằng kiểu kết cấu này là một nỗ lực biểu đạt đầy chủ động của văn nhân, một sự tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm của những người đang dò tìm đường đi cho một sự đổi thay khẩn thiết trong văn chương. Sự đỗ vỡ trật tự thời gian và không gian, sự rỉ mòn của nhận thức, sự khước từ túi khôn lí tính, việc bỏ ngỏ các sự kiện một cách tràn lan vô cớ, việc rải chữ lên bề mặt văn bản như những ký hiệu vỡ vụn, sự kết dính một cách lỏng lẻo giữa các ý tưởng trong mỗi truyện ngắn đã thống trị hầu như toàn bộ các tác phẩm nằm trong tập truyện này. Tất cả làm nên một sự ngạc nhiên, thậm chí là sự khó chịu và cảm giác xa lạ từ phía người đọc. Vậy, thật ra có phải đây là trò chơi vô nghĩa lý, một sự chơi khăm của kẻ cuồng tưởng muốn đả phá nghệ thuật chân chính?  Không là vô nghĩa lý thì ý niệm nào được giấu dưới lớp hành ngôn phức tạp trong một màn quảng diễn bề bộn thủ pháp, một lối chơi khó ưa như thế?  Vạn vật và con người đang hiện hữu trong một quái trạng bị xé nhỏ, hiện thực hiểu như cái truyền thống, đã bị làm sai lệch đến tận gốc rễ. Không còn một cách thức gì để xác định chúng xuất phát trong những điều kiện cụ thể nào của thế giới hiện thực. Hay chính chúng ta đã khước từ hiện thực để đi vào một thế giới ngụy tạo phát xuất từ sự nhận thức và dắt đường đưa lối của chính vô thức chúng ta? Con người của thời mới, của những cuộc chơi mới đã cáo biệt hiện thực trần trụi để truy tìm những giấc mơ hoang tưởng có trong chốn tiềm thức của tộc loại. Và đó chính là một chiều kích mới của một dạng thực tại mới.  Phế truất sự ngự trị của tính logic, Nguyễn Vĩnh Nguyên đang tìm đến một thế giới khác để cấp ý nghĩa cho nó. Ý nghĩa là nhà văn muốn cấp đôi khi lại nằm ngoài sự tri nhận của lý tính, vì anh ta đã thuộc về giấc mơ và những cơn hoang tưởng.

Kiểu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã vẽ nên hình hài của văn chương hiện thực trong mấy thập niên qua. Và ở đây, trong tác phẩm này, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã làm một Cuộc bội ước ráo hoảnh (Lê Thăng Long) với dạng thức nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Chúng ta khó có thể “bắt tận tay, day tận trán” khuôn mặt của một nhân vật nào đó trong tác phẩm để nói rằng anh ta biểu trưng, đại diện cho một tầng lớp nào đó trong xã hội. Các nhân vật trong “Quả táo, con rắn, người nam, người nữ, khu vườn và kẻ giấu mặt” là những người hoàn toàn xa lạ, những kẻ vô danh vô tính, những tha nhân, nhưng cũng có thể họ đã hiện hữu đâu đó trong ta hoặc ngoài ta. Khước từ sự định danh, định tính cho nhân vật, tẩy trắng hoàn toàn những gì dính líu tới nhân vật mà theo văn chương truyền thống đáng ra những điều đó phải hiển hiện đã đưa thế giới ngụy tạo trong văn chương của Nguyễn Vĩnh Nguyên trượt vào mê lộ của sự vắng mặt. Sự lấp lửng lưỡng nan trong hình tượng là những mê dụ nhưng cũng là những thách đố trong việc truy tìm ý niệm. Ở đây, những dạng thức nhân vật khác của văn chương Hậu hiện đại cũng góp mặt. Kiểu nhân vật đám đông trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông”, hay kiểu nhân vật nghịch dị, hoang tưởng trong “Chiếc chìa khóa của người ăn từ điển”, “Chữ bay” là những minh chứng… Dấu vết của lối kết cấu vẫy gọi, kếu cấu liên văn bản cũng mang lại cho văn chương của tác giả này không khí của những siêu tiểu thuyết. Dĩ nhiên, liên văn bản là một trò chơi không phải ai cũng có thể tham dự được. Trên thế giới, những văn nhân cao tay và thành danh trong trò chơi liên văn bản như Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino, Cao Hành Kiện… là không nhiều. Công bằng mà nói thì văn nhân Việt vẫn chưa mấy ai thành công trong việc chắp nối, liên kết những mảng màu kiến thức khác nhau trong sáng tác của mình. Sự hỗn chứa nhiều loại kiến thức trong văn bản chưa tạo ra được một sức mạnh tổng lực của sự biểu đạt. Đó là một điều dễ hiểu bởi việc vượt thoát sự đeo bám của tư duy nghệ thuật tiền hiện đại là một điều khó khăn làm sao. Vẫn còn nhiều điều muốn nói về thi pháp của tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhưng do dung lượng ngắn của tiểu luận, nên ở lưng chừng nhìn Nguyễn Vĩnh Nguyên, chúng tôi dừng lại sự chơi muốn như là chơi bất tận trong thế giới chữ Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Khi văn chương là thế giới ngụy tạo, thế giới đi ra từ trong tâm thức của kiểu văn nhân thời mới thì tất nhiên việc tìm ra các mã nghệ thuật dung chứa ẩn ngầm trong tác phẩm không còn đơn giản như trước. Vì thế, người đọc phải có bản lĩnh và một cảm quan nghệ thuật sâu rộng trước khi can dự vào thế giới ngụy tạo của nhà văn, để mong sao, từ nay không còn có những tác phẩm nghệ thuật phải chết đi một cách oan uổng khi nó chưa kịp cử động đôi cánh của mình.

Trong cái nhìn đối sánh về mặt tư duy nghệ thuật thì văn chương Việt hiện nay tụt hậu khá xa so với sự phô diễn các lối chơi quái đản của văn chương và các lĩnh vực nghệ thuật đương đại khác trên thế giới. Nguyễn Vĩnh Nguyên với những tìm tòi, thể nghiệm trong thế giới chữ của mình có can dự được vào vĩnh cửu hay không còn chờ ở quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian và nghệ thuật. Nhưng một lần nữa, cần thiết phải khẳng định rằng ý thức cách tân, ý thức cần chết đi để một lần sống lại trong sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên luôn luôn là một điều đáng trân trọng.

(SH274/12-11)

 






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)