Khi đường vào văn chương là những mê lộ mới

08:56 03/01/2012
VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

tranh Picasso, nguồn internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong cuộc chơi mới của mình, dù muốn dù không, để thực sự có thể định danh là người chơi mới, nhà văn cũng phải bội ước với một số giá trị đã đóng khung trong truyền thống. Đó như là một quy luật tất yếu và cũng là cách thức để nghệ thuật hướng thượng.

Tiếp xúc với tập truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông, chúng tôi nhận ra có những dấu vết của cảm quan văn chương hậu hiện đại, văn chương của thời chơi mới. Sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là tấm gương phản ảnh một cách trung thực ngoại giới, mà trong những núi rừng nhiệt đới sáng tạo, nhà văn đã nhìn lại khuôn mặt của mình, để thấy những góc cạnh khác, từ đó bước vào kiến giải những bề khuất lấp trong chốn tiềm thức, những miền sâu thẳm trong thế giới tâm hồn. Văn chương Nguyễn Vĩnh Nguyên đã khước từ hiện thực để làm một cuộc nội soi quyết liệt vào chính bản thể của người sáng tạo, và những ý‎ niệm trên văn bản của tác phẩm từ đó mà sinh ra. Trong thế giới của chữ mọi giá trị đều được cào bằng, nhất là những quyền lực bên ngoài chữ mà truyền thống đã vững tin theo. Đến với thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, chỉ có chữ là tất cả. Chữ sinh lời, đẻ biểu tượng làm sinh động những ám dụ. Những phát ngôn trở nên không còn thứ bậc trong một hệ hình (paradigme) mới, tất cả đã được làm phẳng, mọi tiếng nói đều có quyền cất lên,  chen vai hích cánh nhau làm nên tác phẩm. Sự hoài nghi bao trùm lên toàn bộ tác phẩm trong tập truyện. Nhân vật có những hành vi phá vỡ quy tắc đã được găm sâu trong lí tính. Sự đổ vỡ của trật tự đời sống trong truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông hay những những sự vụ tưởng chừng như chỉ có trong miền hoang tưởng đi vào tác phẩm như một ám dụ về hiện thực trong “Chữ bay” hay “Chìa khóa của người ăn từ điển”. Đó là những minh chứng rõ ràng làm cho những thang giá trị cũ, của kiểu phản ánh như thực ngoài đời từng tồn tại trong truyền thống, giờ đã đổ vỡ. Không khó để nhận thấy con người trong thế giới chữ của Nguyễn Vĩnh Nguyên là những thân phận đứng trước sự tan tác của trật tự đời sống, trở nên bơ vơ, lạc loài, vong thân. Tâm trạng hoài nghi, sự bất an bủa vây họ. Không còn tin tưởng vào đời sống bên ngoài đã đẩy con người đi đến giới hạn tột cùng của sự hoài nghi: “Sẽ không một tiếng kêu cứu nào kịp thoát ra. Tất cả sẽ biến mất. Những ‎ý nghĩ trong đầu cũng biến mất” (Bản tường trình kèm theo những tra cứu khác nhau xoay quanh một sự cố không khớp). Đó chính là sự đả phá lí tính, vì lý tính giờ đây là cái cần phải đả phá, thứ lý tính nô lệ, tôi đòi, bầu lên xã hội kỹ trị tù đày con người, sự đánh mất hiện hữu của thân xác và sự vắng mặt của tâm thức thời hậu hiện đại được Nguyễn Vĩnh Nguyên kêu gọi về trong tác phẩm.

Người đọc can dự vào văn bản cũng chính là lúc anh ta tham dự vào một cuộc chơi, một cuộc chơi hoàn toàn mới với những điều luật mới, luật chơi của sự đồng sáng tạo sẽ đưa người đọc đi về muôn nẻo, có khi còn là nẻo ngược chiều với sự sắp đặt ban đầu của tác giả. Bút pháp của Nguyễn Vĩnh Nguyên là một minh chứng cho một kiểu dạng văn chương mới đã hiện tồn trong văn học đương đại hôm nay. Hiện thực trong văn bản không còn là sự trình chiếu hình ảnh ngoại giới mà là những yếu tố cấu trúc nên từ tâm thức chủ quan của chính nhà văn. Nhà văn không còn vấn vương với những đường xưa lối cũ trong thi pháp văn chương hiện thực trước đây. Tất cả, hầu như mất dấu trong toàn bộ tập truyện ngắn này. Chính bởi thế, mà người đọc khó lòng tri nhận một hình ảnh, một khuôn mặt, một sự kiện nào đó một cách trọn vẹn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tác phẩm không còn nhiệm vụ là những đại tự sự phải vẽ cho đúng, cho hết khuôn mặt của hiện thực, những thông điệp mang tính phổ quát cũng không hề xuất hiện, và không cần phải xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Vì sự thực, làm gì có một thế giới khách quan phổ quát, thế giới chỉ là những mảnh vỡ, của tôi, do tôi và được tôi cấp nghĩa mà thôi. Nói như Einstein, thế giới như tôi thấy, nên luôn mang tính tương đối. Rất buồn cười nếu một ai đó cứ cố công – cái công dã tràng, đi tìm sự sai biệt, lệch chuẩn của văn bản và hiện thực để xem đó như một sự mắc lỗi của nhà văn. Ở đây, xin nhớ cho, trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, tính ngụy tạo bao trùm câu chữ.

Nếu đối sánh với những dạng thức kết cấu trong văn chương truyền thống, chúng ta sẽ thấy ngay rằng Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông là tập truyện ngắn có những đột phá mới trong kết cấu. Đôi khi sự vượt phá này khiến người đọc mang những vết hằn truyền thống khó chịu và hoài nghi rằng một kiểu kết cấu bị vỡ vụn như thế liệu có bao hàm hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó hay không. Tính chất đa trị, xu hướng giải nhân cách hóa, giải thiêng, xem thế giới như là một hỗn trạng không hơn không kém đã đưa truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên tiến tới xô ngã và làm đỗ vỡ, gãy vụn kiểu kết cấu theo dòng logic sự kiện và sự trôi lăn theo quy luật nhân quả của các chi tiết có trong kết cấu văn chương cũ. Dạng thức kết cấu chúng tôi muốn nói tới trong truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên đó là dạng kết cấu lắp ghép, phân mảnh - một món ăn khoái khẩu của các nhà văn hậu hiện đại. Đứng trước một không gian thế tục hỗn độn, một không gian “thậm phồn” (mượn chữ Hoàng Ngọc –Tuấn), nội tại văn bản nếu như muốn chuyển tải cả một quái trạng khổng lồ theo màu sắc nguyên y như ngoại giới chắc chắn sẽ trở nên chật chội, và khát khao xác tín hiện thực là bất khả. Kết cấu lắp dựng trở thành phương thức nghệ thuật đắc dụng của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tính chất lắp ghép trước hết hiển lộ ngay trên bề mặt tác phẩm. “Những tia chớp hay vệt truyện facebook” là một truyện ngắn tiểu biểu cho kiểu kết cấu này. Tác giả chia truyện ngắn thành 14 đoạn (cũng có thể xem đó là 14 truyện chớp) được đánh số thứ tự, mỗi đoạn có một dung lượng khác nhau và nội dung mỗi đoạn cũng chuyển tải những ý tưởng khác nhau. Không có một sự nối kết nào giữa các đoạn, hay nói đúng hơn không có một phép tu từ nào xuất hiện để nối kết, nếu như có thì cũng là những kết nối ngầm ẩn. Tất cả sự hỗn mang đó tạo thành một chỉnh thể. Nhà văn thực sự chơi khăm khi cuối tác phẩm này anh ta viết: “Thành thật xin lỗi độc giả.” Người viết muốn gì? Lẽ nào anh ta muốn nhìn những khuôn mặt cau có của người đọc vì khó chịu trước trò chơi ngôn ngữ tưởng chừng như vô trách nhiệm của người sáng tạo? Thế giới của những Ý niệm vẫn mãi là những sợi dây ngầm ẩn bên dưới trò chơi và luật chơi. Ở đây chúng ta có quyền đọc một cách lộn xộn không theo thứ tự của từng phân đoạn. Có thể xáo trộn chúng tùy theo hứng thú của chúng ta. Không có một luật chơi cố định nào cả. Và cũng không ai có đủ thẩm quyền để thảo ra một luật chơi cố định khi thế giới đã trở nên ngụy tạo. Luật chơi hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của những ai can dự vào trò chơi. Phải chăng thế giới ngoại tại đã bị bóp méo, xáo trộn? Sự thức nhận ngoại giới hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của chủ thể nhận thức. Kiểu kết cấu lắp ghép này được Nguyễn Vĩnh Nguyên triển khai trong nhiều tác phẩm khác. Nó tương đương như một trò chơi xếp hình. Toàn thể bức tranh cần tìm được tạo nên bởi những mảnh vỡ nhỏ đặt xa nhau. Khi người đọc, kẻ can dự vào trò chơi, tìm được tổng thể bức tranh thì đó cũng là lúc anh ta đã chiến thắng trong trò chơi. Người đọc chính là người khoác ý niệm lên cho mỗi cuộc chơi. Sau mỗi cuộc chơi sự sản sinh ý niệm sẽ xảy ra và thậm chí sự sản sinh ý niệm về tác phẩm là vô cùng vô tận. Khả năng tri nhận, kiến thức liên văn bản của người đọc càng rộng thì ý niệm sản sinh sau mỗi một lần đọc tác phẩm càng lớn. Trong chiều sâu của nó có thể diễn giải rằng kiểu kết cấu này là một nỗ lực biểu đạt đầy chủ động của văn nhân, một sự tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm của những người đang dò tìm đường đi cho một sự đổi thay khẩn thiết trong văn chương. Sự đỗ vỡ trật tự thời gian và không gian, sự rỉ mòn của nhận thức, sự khước từ túi khôn lí tính, việc bỏ ngỏ các sự kiện một cách tràn lan vô cớ, việc rải chữ lên bề mặt văn bản như những ký hiệu vỡ vụn, sự kết dính một cách lỏng lẻo giữa các ý tưởng trong mỗi truyện ngắn đã thống trị hầu như toàn bộ các tác phẩm nằm trong tập truyện này. Tất cả làm nên một sự ngạc nhiên, thậm chí là sự khó chịu và cảm giác xa lạ từ phía người đọc. Vậy, thật ra có phải đây là trò chơi vô nghĩa lý, một sự chơi khăm của kẻ cuồng tưởng muốn đả phá nghệ thuật chân chính?  Không là vô nghĩa lý thì ý niệm nào được giấu dưới lớp hành ngôn phức tạp trong một màn quảng diễn bề bộn thủ pháp, một lối chơi khó ưa như thế?  Vạn vật và con người đang hiện hữu trong một quái trạng bị xé nhỏ, hiện thực hiểu như cái truyền thống, đã bị làm sai lệch đến tận gốc rễ. Không còn một cách thức gì để xác định chúng xuất phát trong những điều kiện cụ thể nào của thế giới hiện thực. Hay chính chúng ta đã khước từ hiện thực để đi vào một thế giới ngụy tạo phát xuất từ sự nhận thức và dắt đường đưa lối của chính vô thức chúng ta? Con người của thời mới, của những cuộc chơi mới đã cáo biệt hiện thực trần trụi để truy tìm những giấc mơ hoang tưởng có trong chốn tiềm thức của tộc loại. Và đó chính là một chiều kích mới của một dạng thực tại mới.  Phế truất sự ngự trị của tính logic, Nguyễn Vĩnh Nguyên đang tìm đến một thế giới khác để cấp ý nghĩa cho nó. Ý nghĩa là nhà văn muốn cấp đôi khi lại nằm ngoài sự tri nhận của lý tính, vì anh ta đã thuộc về giấc mơ và những cơn hoang tưởng.

Kiểu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã vẽ nên hình hài của văn chương hiện thực trong mấy thập niên qua. Và ở đây, trong tác phẩm này, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã làm một Cuộc bội ước ráo hoảnh (Lê Thăng Long) với dạng thức nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Chúng ta khó có thể “bắt tận tay, day tận trán” khuôn mặt của một nhân vật nào đó trong tác phẩm để nói rằng anh ta biểu trưng, đại diện cho một tầng lớp nào đó trong xã hội. Các nhân vật trong “Quả táo, con rắn, người nam, người nữ, khu vườn và kẻ giấu mặt” là những người hoàn toàn xa lạ, những kẻ vô danh vô tính, những tha nhân, nhưng cũng có thể họ đã hiện hữu đâu đó trong ta hoặc ngoài ta. Khước từ sự định danh, định tính cho nhân vật, tẩy trắng hoàn toàn những gì dính líu tới nhân vật mà theo văn chương truyền thống đáng ra những điều đó phải hiển hiện đã đưa thế giới ngụy tạo trong văn chương của Nguyễn Vĩnh Nguyên trượt vào mê lộ của sự vắng mặt. Sự lấp lửng lưỡng nan trong hình tượng là những mê dụ nhưng cũng là những thách đố trong việc truy tìm ý niệm. Ở đây, những dạng thức nhân vật khác của văn chương Hậu hiện đại cũng góp mặt. Kiểu nhân vật đám đông trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông”, hay kiểu nhân vật nghịch dị, hoang tưởng trong “Chiếc chìa khóa của người ăn từ điển”, “Chữ bay” là những minh chứng… Dấu vết của lối kết cấu vẫy gọi, kếu cấu liên văn bản cũng mang lại cho văn chương của tác giả này không khí của những siêu tiểu thuyết. Dĩ nhiên, liên văn bản là một trò chơi không phải ai cũng có thể tham dự được. Trên thế giới, những văn nhân cao tay và thành danh trong trò chơi liên văn bản như Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino, Cao Hành Kiện… là không nhiều. Công bằng mà nói thì văn nhân Việt vẫn chưa mấy ai thành công trong việc chắp nối, liên kết những mảng màu kiến thức khác nhau trong sáng tác của mình. Sự hỗn chứa nhiều loại kiến thức trong văn bản chưa tạo ra được một sức mạnh tổng lực của sự biểu đạt. Đó là một điều dễ hiểu bởi việc vượt thoát sự đeo bám của tư duy nghệ thuật tiền hiện đại là một điều khó khăn làm sao. Vẫn còn nhiều điều muốn nói về thi pháp của tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhưng do dung lượng ngắn của tiểu luận, nên ở lưng chừng nhìn Nguyễn Vĩnh Nguyên, chúng tôi dừng lại sự chơi muốn như là chơi bất tận trong thế giới chữ Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Khi văn chương là thế giới ngụy tạo, thế giới đi ra từ trong tâm thức của kiểu văn nhân thời mới thì tất nhiên việc tìm ra các mã nghệ thuật dung chứa ẩn ngầm trong tác phẩm không còn đơn giản như trước. Vì thế, người đọc phải có bản lĩnh và một cảm quan nghệ thuật sâu rộng trước khi can dự vào thế giới ngụy tạo của nhà văn, để mong sao, từ nay không còn có những tác phẩm nghệ thuật phải chết đi một cách oan uổng khi nó chưa kịp cử động đôi cánh của mình.

Trong cái nhìn đối sánh về mặt tư duy nghệ thuật thì văn chương Việt hiện nay tụt hậu khá xa so với sự phô diễn các lối chơi quái đản của văn chương và các lĩnh vực nghệ thuật đương đại khác trên thế giới. Nguyễn Vĩnh Nguyên với những tìm tòi, thể nghiệm trong thế giới chữ của mình có can dự được vào vĩnh cửu hay không còn chờ ở quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian và nghệ thuật. Nhưng một lần nữa, cần thiết phải khẳng định rằng ý thức cách tân, ý thức cần chết đi để một lần sống lại trong sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên luôn luôn là một điều đáng trân trọng.

(SH274/12-11)

 






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra