Khảo sát một số di tích trên sơn phận xã Dương Xuân Thượng xưa

10:48 14/08/2009
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

Bên đồi Vọng Cảnh - Ảnh: nguoivienxu.vietnamnet.vn

Năm 1925 hai tác giả người Pháp là L.Gaide và H.Peyssonneux đã viết trong sách Prince Kiên Thái Vương (Hoàng thân Kiên Thái Vương) như sau: “Tại vùng này người ta còn đi lên một đỉnh đồi gọi là “le Belvédère” (đồi Vọng Cảnh), từ đỉnh đồi người ta có cái nhìn bao quát rất ngoạn mục về dòng sông, theo hướng đi lên lăng Minh Mạng và lăng Gia Long; về toàn núi non bao quanh Huế”. Năm 1935 Phòng Du lịch Huế đã ấn hành một tập gấp hướng dẫn du lịch và vùng phụ cận. Tập hướng dẫn cho biết dù tham quan 1 ngày, 2 ngày hay 3 ngày tại Huế đều có tour tham quan đồi Vọng Cảnh vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Để hấp dẫn du khách, tập gấp hướng dẫn du lịch nhấn mạnh: “Đồi Vọng Cảnh là điểm đẹp nhất để ngắm sông Hương và các khu lăng tẩm hùng vĩ của các vua triều Nguyễn”. Cụ Dương Đình Nguyên, một người gốc Huế năm nay đã 90 tuổi, ở phường Phú Cát, thành phố Huế cho biết: “Trước năm 1930 trên đồi này đã có đài Vọng Cảnh để du khách đến đó đứng ngắm cảnh”. Còn nhà báo Phan Quang nhận xét: “Huế đẹp kín đáo. Có quen thuộc đất, người và lối sống ở đây mới phát hiện được dần và thưởng thức hết vẻ đẹp. Ai cũng khen sông Hương đẹp, song phải đứng trên đài Vọng Cảnh vào sáng sớm mai, nhìn xuống dải sông dưới điện Hòn Chén lượn khúc giữa các đồi cây và vườn cau trang nhã mới hiểu hết vẻ đẹp của con sông này”. Ông Nguyễn Ngọc Giai, Việt kiều Pháp khi thăm Cố đô Huế, ông Giai được tôi hướng dẫn du ngoạn rừng cảnh quan. Đứng trên đồi Vọng Cảnh, ông Giai thốt lên: “Nhìn những làng quê Hải Cát, Ngọc Hồ, Hương Hồ… ẩn mình dưới rừng cây xanh, Huế như bức tranh lụa được lồng trong một khung cảnh yên ả và thanh bình”. Tôi tiếp lời: “Ở Malaysia có đồi du lịch Mimaland đã được du khách quốc tế biết đến là nhờ có cảnh quan thiên nhiên rất cổ sơ, hoang dã”.

Vừa qua chúng tôi đã đến xem quy hoạch chi tiết khu vực đồi Vọng Cảnh tại Văn phòng Sở Xây dựng Thừa Thiên Huế. Đứng bên cạnh tôi, ông Trần Quốc Phong, Ủy viên Thông tin Câu lạc bộ Phú Xuân Huế, bộc bạch: “Tôi hoan nghênh và ủng hộ phần đầu tư tôn tạo khu vực này thành công viên lớn để nhân dân và du khách dạo chơi ngắm cảnh, kết hợp với tham quan vùng văn hoá tâm linh Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền xung quanh và làm nơi hoạt động dã ngoại, cắm trại, có các chòi ngồi mát ngắm cảnh như đã thể hiện trong quy hoạch.

Theo bản thuyết minh tóm tắt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng khu vực đồi Vọng Cảnh và vùng phụ cận thành phố Huế (do Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn - Bộ Xây dựng lập) cho biết khu vực nghiên cứu khoảng 240 ha, trong đó khu vực đồi Vọng Cảnh tạm tính từ giới hạn Nhà máy nước (Vạn Niên) theo đường phân lưu của khu di tích các lăng tẩm tới nam sông Hương (Khe Bối) khoảng 30 ha.

Tuy nhiên qua khảo sát trên thực địa của chúng tôi thì xung quanh khu vực này bao gồm: khu lăng tẩm Khiêm Lăng - Tự Đức, lăng bà Học Phi (thứ phi vua Tự Đức), Tại Thử Đường (nhà thờ bà Học Phi), lăng Hoàng tử Cảnh, Tư lăng - Đồng Khánh, lăng Kiên Thái Vương, lăng bà Chiêu Nghi, vợ chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, lăng bà Võ Thị, vợ ông Tôn Thất Xuân, cải táng từ Xiêm - Thái Lan về kinh đô Huế năm 1810, Tư Minh Lăng - Thánh Cung (chính phi vua Đồng Khánh), Thọ Xuân Vương viên tẩm (Vườn lăng Thọ Xuân Vương), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định, mẹ vua Bảo Đại), lăng mộ tổ họ Thân, bến Khiêm Sơn… Theo địa mạch, từ đồi Vọng Cảnh tiếp giáp các núi: Lý Khiêm Sơn, Lao Khiêm Sơn, Cư Khiêm Sơn, dấu tích Thần từ Khiêm Sơn (nhà thờ thần núi có Khiêm Lăng dựng năm 1867), Thiên Hoàng Long Sơn, Thiên Mã Chính Án Sơn… Riêng tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn dựng cách đồi Vọng Cảnh khoảng 250m về phía Bắc, cách bên ngoài la thành Khiêm Lăng - Tự Đức khoảng 5m về phía Tây. Tấm bia được làm bằng đá thanh cao 90 cm, rộng 43cm, dày 13,5cm, đặt trên một bệ đá; cả hai mặt của bia đều khắc chữ Hán: “Lý Khiêm Sơn”. Theo bài Khiêm Cung ký, do vua Tự Đức viết năm 1871 Lý Khiêm Sơn là ngọn núi thứ 6, định vị thế phong thủy cho Khiêm Lăng. Bác Dương Văn Tùng, nguyên là hộ lăng (giữ lăng) hiện ở tại thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân diễn tả: “Từ núi Cư Khiêm (còn gọi là độn Bầu Hồ) bao quát cả vùng đến đồi Vọng Cảnh (còn gọi là Độn Bạc) trước kia là đất quan phòng, tức là vùng đất ngoại cấm”. Theo địa bộ xã Dương Xuân Thượng (nay là xã Thủy Xuân), bản chữ Hán, đề ngày 15 tháng 10 năm Bảo Đại thứ 12 (1937) cho biết đất quan phòng của Khiêm Lăng - Tự Đức rộng tới 29 mẫu 5 sào 6 thước. Riêng đất rừng do kiểm lâm quản lý 24 mẫu 1 sào 4 thước 3 tấc và rừng thông chiếm diện tích 20 mẫu 6 sào 15 thước 1 tấc. Sau năm 1954 rừng thông này đã bị chặt phá.

Trong một đợt khảo sát mới đây ở sườn đồi Vọng Cảnh, chúng tôi đã tìm thấy dấu tích một trụ biểu cổ. Dấu tích có hình tròn, đường kính khoảng 1m được xây bằng gạch trát vôi vữa, trên một số viên gạch có loại ký hiệu thường thấy ở gạch thời Nguyễn, chỉ tập trung một số di tích lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Qua nghiên cứu dấu tích này chỉ nằm cách la thành Khiêm Lăng khoảng 300m.

Trong một lần trao đổi với anh Lê Văn Ty, Phó phòng đặc trách kinh doanh thuộc Trung tâm Công viên cây xanh cho biết: “Chúng tôi đã phủ xanh 5.911 cây thông hai lá ở khu vực đồi Vọng Cảnh. Riêng trên đỉnh đồi đã có hàng trăm cây cao tới 3m”. Nhìn những hàng cây thông vươn mình trong nắng gió, tôi chợt nhớ tới câu thơ của cố Hòa thượng Bích Phong: “Một dãy núi xanh thành cảnh diệu. Bảy lớp hàng cây thấy công kỳ”.

H.V
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.