PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
Ảnh chỉ mang tính minh họa
Sách gồm 52 trang, ghi chép phần giai điệu 43 bài bản âm nhạc của Ca Huế, trong đó, nhiều bài còn lưu truyền đến ngày nay và nhiều bài khác đã thất truyền. Đối với công tác phục hồi, bảo tồn các bài bản âm nhạc cổ truyền, đây là một tài liệu quý giá giúp làm sống lại các giai điệu cổ xưa có cách đây hàng trăm năm của nghệ thuật Ca Huế - thể loại âm nhạc thính phòng đặc sắc ở miền Trung Việt Nam.
Về thể thức, đây là một văn bản viết tay có kích cỡ 31cm x 22cm, nét chữ đều, đẹp, chân phương. Điều đáng quý là văn bản còn ở trong tình trạng tốt, không rách nát, chữ vẫn còn đọc rõ, cho nên nội dung các bài bản bên trong không bị khuyết thiếu. Đây là điều quan trọng bởi nó cung cấp các thông tin làm căn cứ để giải mã, phục hồi các giai điệu bài bản âm nhạc của ngày xưa.
Các bài bản âm nhạc trong “Di tình nhã điệu” được ghi theo 2 lối: thứ nhất là chỉ có phần giai điệu, thứ hai là ghi cả giai điệu và lời ca. Trong đó, lối ghi thứ nhất được sử dụng nhiều hơn. Dù niên đại không được ghi trên văn bản, nhưng căn cứ vào nội dung bên trong, chúng tôi suy đoán rằng tài liệu này có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Trong số 43 bài bản ghi trong sách này có đến 5 bài Lưu thủy. Là một bài bản phổ biến của Ca Huế, Lưu thủy có mặt ở hầu hết các cuộc trình diễn cũng như trong các văn bản. Các bài Lưu thủy được ghi chép trong sách “Di tình nhã điệu” gồm có:
- Lưu thủy khúc (gồm 3 phiên bản khác nhau)
- Lưu thủy giọng ngâm khách
- Lưu thủy giọng ngâm
- Lưu thủy đơn điệu
- Lưu thủy thượng cung
![]() |
Minh họa 1 |
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ khảo sát bản Lưu thủy khúc được ghi ở các trang đầu của sách. Thực ra, ở đây có giai điệu của 3 phiên bản bài Lưu thủy dùng cho các trường hợp khác nhau. Những bài bản khác trong sách sẽ được giới thiệu trong những bài nghiên cứu tiếp theo.
1. Bài Lưu thủy thứ nhất
Trong phần minh họa 1 là giai điệu của bản Lưu thủy thứ nhất được ghi ở trang đầu tiên của quyển “Di tình nhã điệu”.
Giai điệu được ghi theo kiểu chữ nhạc cổ truyền, từng hàng dọc từ trên xuống dưới. từ phải qua trái. Nhịp của giai điệu được đánh dấu bằng một dấu chấm phía bên phải chữ nhạc, và chữ nhạc đó được ghi cách chữ nhạc tiếp theo một khoảng trống. Theo đó thì bài bản này có 16 nhịp. Dưới đây, chúng tôi xin chuyển biên bài bản này thành hệ thống solfege, lấy Hò tương đương với do 1.
Bài bản này có giai điệu đơn giản dựa trên thang 5 âm Hò - xự - xang - xê - cống, tương đương với Do - re - fa - sol - la. Đây là thang âm rất phổ biến trong nhạc
Huế nói riêng và nhạc Việt Nam nói chung.
So sánh với bản Lưu thủy hiện nay, giai điệu này vẫn được giữ nguyên, tất nhiên là chỉ giữ nguyên khung sườn giai điệu. Điều khác biệt là bài bản hiện nay có 32 nhịp, nghĩa là người ta đã chia đôi các khung nhịp của bài Lưu thủy ngày xưa (mỗi 1 nhịp được chia nhỏ thành 2 nhịp). Vì vậy, bài 16 nhịp đã trở thành bài 32 nhịp như chúng ta có hiện nay. Bên cạnh đó, người ta đã thêm thắt các nốt nhạc “hoa lá” khiến giai điệu bài Lưu thủy hiện nay trở nên mượt mà hơn. Như vậy, bản Lưu thủy thứ nhất gồm 16 nhịp tồn tại từ ít nhất 100 năm về trước đã được truyền thừa cho đến ngày nay với sự biến đổi ít nhiều về nhịp và giai điệu, nhưng không ảnh hưởng đến cấu trúc khung sườn của bài bản.
Ghi chú: Phần nhịp lấy đà ở đây là theo cách ghi nhạc của Tây phương, còn trong cách ghi nhạc truyền thống Việt Nam thì nó nằm trong khuôn nhịp thứ nhất của bài bản.
![]() |
Minh họa 2 |
2. Bài Lưu thủy thứ hai
Bài thứ hai có giai điệu căn bản giống với bài thứ nhất, song có nhiều chữ nhạc hơn và vì thế, tính giai điệu cao hơn. Thêm vào đó, bài này bắt đầu bằng chữ Hò, chúng tôi suy đoán rằng đây là dấu hiệu cho thấy bài bản này dành cho nhạc cụ.
Với cách ghi nhịp thống nhất trong toàn quyển sách, tức mỗi nhịp được đánh dấu bằng một dấu chấm bên cạnh nốt nhạc, bài bản này có 18 nhịp tương đương với 18 dấu chấm nhịp trong bài (xem minh họa 2), nhiều hơn 2 nhịp so với bản thứ nhất.
Xin xem bản chuyển biên dưới đây:
So sánh giai điệu bài này với bài thứ nhất, có thể thấy chúng có cùng giai điệu như nhau, và bài thứ hai có nhiều hơn 2 nhịp là do người xưa đã viết thừa 2 dấu chấm nhịp được chúng tôi khoanh tròn trong minh họa 2. Sự nhầm lẫn đó khiến một bài bản từ 16 nhịp trở thành 18 nhịp. Nếu không có 2 dấu chấm nhịp này thì bài thứ hai sẽ giống hoàn toàn với bài thứ nhất, chỉ khác là nhiều chữ nhạc hơn mà thôi.
![]() |
Ghi chú: chữ hò (do) đầu tiên có thể nằm trong khuôn nhịp lấy đà |
Để bổ sung chứng cứ, chúng tôi so sánh các bản Lưu thủy trong các tài liệu được cho là cùng thời với “Di tình nhã điệu” mà chúng tôi sưu tầm được. Chúng đều có 16 nhịp. Mãi cho đến năm 1919, khi cụ Hoàng Yến xuất bản bài viết “Âm nhạc Huế - đờn nguyệt và đờn tranh” in trong BAVH, bản Lưu thủy đã trở thành 32 nhịp. Kể từ đó, bản Lưu thủy 32 nhịp được lưu truyền cho đến nay.
Như vậy, bài Lưu thủy thứ hai có thể được chỉnh lại như sau:
![]() |
Minh họa 3 |
3. Bài Lưu thủy thứ ba
Bài thứ ba là bài dành cho đàn tranh, lý do là vì kỹ thuật Á đặc trưng của đàn tranh (là tay phải vuốt dây liên tục từ trên xuống hoặc từ dưới lên) xuất hiện ở đầu bài và cả ở trong phần giai điệu giữa bài. Thêm vào đó, giai điệu có nhiều nốt đôi quãng 8 thường hay bắt gặp trong kỹ thuật tay phải của đàn tranh. Hãy xem xét bài bản này trong văn bản bằng minh họa 3 dưới đây:
Ở đây, bài bản có 17 dấu chấm nhịp được ghi trong văn bản, tương đương với 17 nhịp. Bài bản này được chuyển biên như dưới đây:
So sánh bài này với bài thứ nhất có 16 nhịp và các bản Lưu thủy 16 nhịp khác, chúng ta thấy bản thứ ba này có vấn đề về nhịp và về giai điệu.
- Về nhịp, trong văn bản chữ Hán có 2 nhịp được chúng tôi khoanh tròn để lưu ý, đó là các nhịp thứ 3, thứ 6 của bài bản trong minh họa 3. So với giai điệu các bài 16 nhịp, đây là hai chấm nhịp ghi bị thừa, cần phải bỏ đi.
Nếu bỏ đi hai nhịp đó, bài bản chỉ còn 15 nhịp, thiếu mất một nhịp so với bài Lưu thủy thứ nhất. Nhịp thiếu đó nằm ở vị trí nào? Muốn xác định điều này, ta phải xét đến yếu tố giai điệu của bài bản.
- Về giai điệu, nếu không tính 2 chấm nhịp bị thừa thì chúng tôi nhận thấy có vấn đề từ nhịp thứ 10 đến nhịp thứ 11, lẽ ra ở đây phải có thêm một nhịp nữa thì khi bắt vào nhịp thứ 13 mới khớp với giai điệu của bài Lưu thủy. Như vậy, văn bản Hán Nôm bị thiếu mất một nhịp ở vị trí này. Tóm lại, phiên bản thứ ba này vừa thừa lại vừa thiếu nhịp so với bài Lưu thủy thứ nhất.
4. Vài lời nhận xét
Ba phiên bản của bài Lưu thủy trên đây thực chất chỉ là một bài, nhưng được dùng cho các nhạc cụ khác nhau, kể cả giọng hát. Có thể thấy rằng người xưa đã phân biệt rõ sự khác nhau trong diễn tấu bài bản này trên những nhạc cụ khác nhau. Đây là một lưu ý cần thiết cho thế hệ nhạc công trẻ, bởi ngày nay, chúng ta có xu hướng diễn tấu các nhạc cụ trên cùng một giai điệu, và giai điệu đó cũng trùng cả với giọng hát. Chúng ta cần chú ý đến điều này để giữ gìn sự tinh tế, nét đặc thù của từng nhạc cụ, dù mỗi thứ vang lên một giai điệu riêng, nhưng khi hòa tấu vẫn ăn khớp với nhau thành một tổng thể thống nhất. Đó là cái hay của nghệ thuật hòa tấu trong Ca Huế, cần phải được gìn giữ.
Tài liệu lịch sử âm nhạc, ở đây là các bản ghi nhạc cổ, có khi là không chính xác, chẳng hạn như trong ba phiên bản vừa nêu. Đó là sự nhầm lẫn về việc chấm thừa nhịp trong các bài thứ 2 và 3, cũng như sự ghi chép thiếu hẳn 1 nhịp trong bài thứ 3. Qua đây, chúng ta có thể rút ra bài học về phương pháp nghiên cứu là cần thận trọng với việc dựa vào một văn bản chữ nhạc cổ nào đó để phục hồi bài bản. Chúng ta cần đối chiếu, so sánh nhiều văn bản với nhau nhằm nâng cao tính chính xác của cứ liệu lịch sử, phục vụ cho công tác nghiên cứu, phục hồi các bài bản cổ.
![]() |
Bài Lưu thủy hiện nay (in trong sách Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2012). |
Cần lưu ý đến sự biến đổi về nhịp của bài Lưu thủy từ cách đây khoảng 100 năm và phiên bản hiện nay. Từ bản 16 nhịp, bài Lưu thủy đã biến đổi thành 32 nhịp. Điều này cho thấy các nghệ sĩ Ca Huế các thế hệ trước đã có tư duy thay đổi nhịp của bài bản. Phải chăng đây là manh nha của việc mở rộng lòng bản âm nhạc cổ truyền và hiện tượng này đã được phát triển mạnh mẽ trong nhạc Tài tử Nam bộ? Đây chỉ là câu hỏi đặt ra để cùng quan tâm, chúng ta cần tìm thêm chứng cứ để khẳng định, chứng minh trong những công trình nghiên cứu tiếp theo.
Việc khảo sát bản Lưu thủy khúc trong quyển “Di tình nhã điệu” đã gợi mở nhiều vấn đề liên quan đến nhận thức về cả mặt lý thuyết và thực hành di sản âm nhạc Ca Huế. Nó đóng góp phần nào vào công tác nghiên cứu, bảo tồn loại hình âm nhạc di sản độc đáo này của cố đô Huế nói riêng và Việt Nam nói chung.
P.T.T
(TCSH381/11-2020)
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trung Phán, Nguyễn Trung Nghệ (1928), Sách dạy hát tiếng Nam, Nhà in Tiếng Dân, Huế.
2. Nguyễn Đình Sáng, Nguyễn Thị Kim Liên (2012), Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
3. Hoàng Yến (1919), Âm nhạc Huế: đờn nguyệt và đờn tranh, Những người bạn cố đô Huế, bản dịch của Đặng Như Tùng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998, tr.83 - 237.
VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.
Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).
PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.
THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.
YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.
VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.
THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.
TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.
THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.
PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.
LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.
LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...
NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.
VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.
VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.
TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.
TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang