K8 - Bản hùng ca

09:36 26/07/2017

Kỷ niệm ngày Thương binh Liệt sĩ 27 - 7  

DO YÊN

Đoàn cựu chiến binh chiến trường Trị – Thiên thăm bia tưởng niệm K8 tại thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế

Cựu chiến binh (CCB) Đỗ Bình Minh (Thanh Hóa) trong bức thư đề ngày 28 tháng 10 năm 2014 đã viết: “Những chiến công vang dội và sự hy sinh quá lớn của cán bộ chiến sĩ K8. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm xưa đã lùi xa và mấy ai còn nhớ đến. Nhưng chúng tôi CCB K8 vẫn còn nguyên vẹn những chiến thắng, sự hy sinh trong các trận đánh trên các chiến trường...

Để xứng đáng là người lính K8 và ấm lòng những đồng đội đã hy sinh chúng tôi sẵn sáng lên đường sát cành cùng đơn vị khi có lệnh của đoàn Gio An
”.

Gần 50 năm sau trận chiến oanh liệt giữa một tiểu đoàn Quân giải phóng quần nhau với 7 tiểu đoàn Mỹ - Việt Nam Cộng hòa suốt cả tuần lễ, mấy ai biết đến phiên hiệu K8. Họ đã chiến đấu với lực lượng địch mạnh hơn cả chục lần, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, chấp nhận hy sinh không để lọt vào tay địch. Hơn 500 cán bộ, chiến sĩ K8 và 200 bộ đội địa phương K10 đã hy sinh anh dũng trên trận địa Phước Yên.

Chúng tôi là K8

K8 là phiên hiệu của đơn vị nào? Tại sao họ phải tử chiến ở Phước Yên và tổn thất nhiều như thế? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi này.

K8, tức là Tiểu đoàn 8 được thành lập tháng 9/1954, trước khi tập kết ra Bắc theo Nghị quyết của Liên khu ủy 5, họp ngày 27 và 28/71954. Trong quá trình chiến đấu, tiểu đoàn đã nhiều lần thay đổi phiên hiệu đơn vị, nằm trong đội hình chiến đấu của nhiều quân khu, quân đoàn và mặt trận. Cuối năm 1967, Tiểu đoàn 8 được biên chế về Trung đoàn 3 (Đoàn Gio An anh hùng như bức thư của CCB Đỗ Bình Minh), Sư đoàn 324, Quân khu IV và được điều động vào chiến trường Trị Thiên Huế, trực thuộc Quân khu Trị Thiên. CCB Đỗ Bình Minh viết: “Nói đến K8 là nói đến Pu chăm xi - căn cứ Mường Kheo trên đất bạn (Lào) hay tiếng đàn Ta lư mà tiếng trống trận trên đất Gio An, Quảng Trị đã làm cho quân thù khiếp sợ” .

Từ năm 1969, trung đoàn 3 được điều động vào chiến trường Quân khu V. Tiểu đoàn K8, nay là Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu V.

Những câu chuyện về K8 được các CCB như Nguyễn Đức Thuận (sinh năm 1943, quê Quảng Bình, hiện trú tại Huế), Lê Hà Học (SN 1947, quê Thanh Hóa, hiện trú tại phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Thắng (Bà Rịa - Vũng Tàu), Dương Bá Nuôi - cán bộ tác chiến nay còn sống tại thành phố Huế, xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường... kể lại với báo giới và tự viết bài như CCB Nguyễn Văn Thắng với bài viết “K8 bi tráng và anh hùng”.

CCB Nguyễn Đức Thuận, sinh năm 1943, quê ở xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông nhập ngũ ngày 12/10/1963. Năm 1966 được kết nạp Đảng tại Mặt trận Đường 9-B5. Ông đã được tặng 2 Huân chương Chiến công hạng I và hạng II; 6 Bằng khen của Trung đoàn và nhiều danh hiệu khác. Vào dịp Xuân 1968, ông tham gia Mặt trận Huế và sau đó hoạt động ở Quảng Điền, tham gia trận đánh Phước Yên. Trận đánh ấy, ông Thuận bị thương, nhờ được nhân dân chở che, chăm sóc nên không sa vào tay giặc. Ông được gia đình nữ đảng viên mật Nguyễn Thị Niềm đưa xuống hầm bí mật chăm sóc, điều trị. Sau đó, khi lành vết thương, qua liên lạc, ông tiếp tục hoạt động ở huyện đội Quảng Điền.Và ông cùng những người còn sống chính là nhân chứng của trận chiến đẫm máu năm xưa.

Còn CCB Lê Hà Học (SN 1947, quê Thanh Hóa, hiện trú tại phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) đứng lặng hồi lâu trước dòng sông Bồ, đôi mắt ông mờ đi trước khói hương nghi ngút. Trận ấy ông bị thương nặng, bị địch bắt lại cùng với một số đồng đội. Sau 5 ngày điều trị tại Bệnh viện Huế, chúng đưa ra giam tại nhà tù Phú Quốc. Trong hồ sơ lưu trữ tại nhà tù Phú Quốc, những người lính K8 bị khép vào tội “xâm nhập bất hợp pháp vào lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa”. Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, những chiến sĩ K8 cùng nhiều tù binh tại nhà tù Phú Quốc được giải thoát. Những người sống sót năm xưa giờ tứ tán khắp nơi. Người mất, người về quê, người lưu lạc đâu không rõ. Hơn nửa thế kỷ rồi nhưng như CCB Lê Hà Học chỉ gặp lại được 3 người là đồng đội năm xưa. Ông tâm sự: “Giá như, một lần nào đó, những người sống sót có thể về đây thắp cho anh em ngã xuống ở Phước Yên một nén hương, để những người nằm lại dưới dòng sông Bồ không phải chạnh lòng…”.

Cựu chiến binh Lê Hà Học thắp hương tưởng nhớ các đồng đội ngã xuống trên quê hương Phước Yên


Đặc biệt nhất là CCB Đỗ Xuân Cường được cho là hy sinh trong trận Phước Yên, đã quay về gặp đồng đội năm 2013. CCB Ngô Quang Quy - người lính trong nhóm cảm tử mở đường máu cho đơn vị hiện sống ở Thanh Hóa bất ngờ gặp lại xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường là đồng đội do tự tay mình chôn cất, không tin điều ấy là sự thật. CCB Đỗ Xuân Cường trong trận đó là xạ thủ B41, thuộc E3, F324. Trong trận Phước Yên, Đỗ Xuân Cường khi ấy tròn 19 tuổi, xung phong làm cảm tử mở đường máu phá vây cho đơn vị, được truy điệu sống và được đồng đội chôn cất sau khi hy sinh. Theo ông kể lại, khi mở đường máu ông bị bắn trọng thương rồi được địch bắt giữ, cứu chữa. Tháng 5/1969, người tù Đỗ Xuân Cường bị giải đến nhà lao Phú Quốc.

Tử chiến ở Phước Yên: “Thề chiến đấu hy sinh đến giọt máu cuối cùng.”

Xuân 68, từ Mặt trận Đường 9, Sư đoàn 324 được lệnh cử 2 Trung đoàn là E1 và E3 tăng cường cho mặt trận Huế. Sau 1 tuần hành quân, mãi đến ngày 19/2, K8 mới có mặt ở Huế, chủ yếu ở Thành Nội và tham gia giữ cửa An Hòa. Đến ngày 23/2 rút khỏi Huế về đóng quân ở vùng Khe Trái (Hương Trà). Tuy nhiên, tại đây, K8 bị B52 dội bom làm nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Thế nhưng chưa đầy một tháng sau, lại được lệnh: Tổ chức cho K8 luồn sâu xuống vùng đông huyện Quảng Điền, phối hợp với lực lượng địa phương củng cố chính quyền cách mạng ở đồng bằng, đồng thời kéo giãn địch ra, tạo điều kiện cho tổng tấn công nổi dậy đợt II.

Hành quân trong bối cảnh như vậy nên K8 gặp vô vàn hiểm nguy. Ngày 20/3, rời hậu cứ Khe Trái, nhưng mãi đến ngày 26/3, K8 mới có mặt ở làng Thanh Lương (nay thuộc phường Hương Xuân, thị xã Hương Trà). Sau 2 ngày đóng quân, Mỹ phát hiện được liền huy động máy bay, xe tăng vừa ném bom vừa rải quân bao vây. Cuộc giao tranh kéo dài 5 ngày, mãi đến đêm 4/4, K8 mới mở được đường máu. Vào lúc này, trên hướng của Đại đội 2, trong khi cán bộ đại đội và phái viên cấp trên đang họp bàn tìm cách đối phó với địch, không khí cuộc họp vô cùng căng thẳng, thì xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường bước vào trình bày phương án mở đường máu cho đơn vị rút ra ngoài. Muốn thực hiện phương án đó, phải có một tổ từ 2 đến 3 người xung phong vượt qua vòng vây quân địch. Nghe Cường trình bày, cả cuộc họp lặng đi. Xét thấy không còn cách nào tốt hơn nên mọi người chấp thuận phương án của Cường. Hai chiến sĩ Đỗ Xuân Cường và Ngô Quang Quy xung phong thực hiện. Tất cả đạn B41 của đại đội gom lại còn được 14 quả, chất đầy hai sọt của Cường và Quy. Cường xông ra giữa vòng vây quân thù. Theo sau Cường là Quy với giỏ đạn trên lưng. Trên đường mở đường máu từ Phước Yên qua Quốc lộ 1A lên Hương Sơn, Hương Thạnh, Cường đã bắn 14 quả đạn B41 diệt nhiều thiết giáp và bộ binh địch, thu hút địch về phía mình. Tốp mở đường máu vừa phản công vừa rút về địa bàn thôn An Ninh Thượng (nay thuộc phường Hương Long, thành phố Huế). Chớp thời cơ đó, lực lượng còn lại của K8 tổ chức phá vòng vây.

*

Sau trận vây ở Thanh Lương, K8 cứ thế tiếp tục chuyển quân và rạng sáng ngày 26/4 thì tới làng Phước Yên. Phước Yên là một ngôi làng nằm ven sông Bồ, một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, cách thành phố Huế khoảng 15km về phía đông bắc (thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền). Biết K8 đang xây dựng phong trào cách mạng trong nhân dân, bọn địch tìm mọi cách để phát hiện dấu vết của đơn vị. Thông tin chính xác từ bọn tề điệp báo về: “K8 đang ở Phước Yên” đã làm cho địch hí hửng. Chúng thực hiện một kế hoạch bủa vây, ép K8 đầu hàng.

Trong khi đang đào công sự trong sáng 26/4, bất ngờ địch đổ quân. Chúng huy động 2 Tiểu đoàn Kỵ binh bay của Mỹ cùng 5 Tiểu đoàn của Sư đoàn I Bộ binh Việt Nam Cộng hòa, được xe tăng và máy bay yểm trợ quyết “tiêu trừ cho được Cộng quân”.

Cuối tháng 4, cánh đồng làng Phước Yên trơ gốc rạ, tứ bề trống hoác. Địch tiến hành bao vây, canh giữ các chốt và dùng giây kẽm gai để bịt những nơi không có người canh giữ. Sau mỗi đợt không kích, pháo kích, địch dùng trực thăng cho loa phóng thanh kêu gọi buộc bộ đội ta quy hàng. Đáp lại là từng loạt AK, từng quả đạn cối. Cuối cùng, địch tập trung binh lực tấn công. Bom đạn xuống làng Phước Yên với mật độ dày đặc. Cán bộ, chiến sĩ K8 đã quần nhau với 7 tiểu đoàn địch có hỏa lực mạnh hơn gấp hàng chục lần, đã tiêu diệt hơn 200 tên Mỹ. Tuy nhiên, K8 cũng bị tổn thất nặng nề, hơn hai phần ba quân số bị thương vong.

K8 lợi dụng những bờ tre, nương các bờ tường tổ chức kháng cự. Nhận tin K8 bị vây, Quân khu cử K1 của Trung đoàn I do tiểu đoàn trưởng Võ Chót, sau là Thiếu tướng, phó Tư lệnh Quân khu IV chỉ huy về đánh giải vây. Nhưng do không phối hợp được trong - ngoài nên đến khuya phải rút.

Không thể khoanh tay chịu chết, Tham mưu trưởng E3 tăng cường là ông Lương đã cùng chỉ huy K8, gồm: Tiểu đoàn trưởng Viễn, Tiểu đoàn phó Khải, Chính trị viên Tiến, Trợ lý hậu cần Tiểu đoàn Sinh… cùng các cán bộ đại đội cùng bàn và tìm cách rút. Quân số K8 có đến gần 600 quân là do được Trung đoàn 3 tăng cường thêm B trinh sát, Đội phẫu, Đội thông tin, Sở chỉ huy nhẹ của Trung đoàn do ông Lương chỉ huy.

Khuya 29/4, bằng tinh thần quả cảm, cán bộ, chiến sĩ K8 đã tổ chức chiến đấu và mở đường máu vượt qua vòng vây. “Thề chiến đấu hy sinh đến giọt máu cuối cùng”, trong vòng vây bom đạn tầng tầng lớp lớp của kẻ thù xâm lược, K8 đã giữ trọn lời thề. Dàn quân ra cánh đồng là một điều bất lợi trong chiến đấu khi đối đầu với kẻ địch đông đảo cùng sự hỗ trợ của máy bay, xe tăng, trọng pháo. Nhưng để tránh những tổn thất cho dân làng, K8 đã chấp nhận hứng chịu hy sinh là điều được lường trước.

Dù đã diệt hơn 200 lính Mỹ nhưng sau 5 ngày giao tranh, K8 đã bị tổn thất nặng nề. Điểm lại, số sống sót chỉ còn đúng 46 người, trong đó có Tiểu đoàn trưởng và cán bộ tác chiến Quân khu.

Phước Yên - đó là nỗi đau của những người lính K8 còn sống sót. Nhưng Phước Yên cũng là biểu tượng cho tinh thần quật cường, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của Tiểu đoàn 8.

Đề xuất xây dựng khu chiến tích K8

Trận chiến trên cánh đồng Phước Yên những ngày tháng 4/1968 của K8 là một bản bi hùng ca, nhưng chưa được nhiều người biết đến.

Sau khi thành lập Ban liên lạc, những cán bộ chiến sĩ của K8 năm xưa thường tổ chức gặp gỡ. Và họ thống nhất, chọn ngày 28/4 hàng năm làm ngày giỗ chung cho trên 500 đồng đội đã hy sinh ở Phước Yên. Vào năm 2007, một đài tưởng niệm do Cựu chiến binh K8, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện Quảng Điền, Bộ Tư lệnh Quân khu IV góp sức dựng lên ngay trên chính vị trí mở đường cho K8 thoát khỏi vòng vây đẫm máu. Những nhát cuốc vỡ đất đầu tiên cho một công trình đã phát lộ những hài cốt liệt sĩ. Và đến một ngày tháng 5/2011, trong khi thi công công trình giao thông nội đồng tại Đập Hóp, cánh đồng Phước Yên, cách đài tưởng niệm không xa, công nhân thi công công trình đã phát hiện thêm nhiều hài cốt liệt sĩ của K8. Một số nhân chứng cho biết dáng hình của các liệt sĩ hy sinh vẫn trong tư thế không buông tay súng. Tin tức này chấn động nhân dân và chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến ngày 2/6/2011, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức lễ truy điệu, an táng 29 hài cốt anh hùng liệt sĩ hy sinh trong trận Phước Yên tại Đền tưởng niệm liệt sĩ K8, K10 - thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền. Tại lễ truy điệu, các đại biểu đã dâng hương, dâng hoa và tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Sau lễ truy điệu, 29 hài cốt liệt sĩ đã được đưa về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Hương Điền.

Tại sao một tiểu đoàn cảm tử, với bao chiến tích cùng trận huyết chiến bi hùng ở làng Phước Yên như thế sao vẫn chưa được nhiều người biết đến và vinh danh? Còn biết bao nhiêu chiến sĩ K8 đã hy sinh trong trận chiến đấu ấy? Hài cốt các anh, những ai đã tìm thấy, những ai vẫn còn nằm trong lòng Đất Mẹ?... Nhiều CCB nghẹn ngào cho biết còn có những người nằm dưới sông Bồ, làm sao quy tập được?

Nhiều ý kiến cho rằng dù đã có một đài tưởng niệm được xây dựng nhưng để xứng tầm với trang sử bi hùng trong đấu tranh giữ nước, ở đây cần được xây dựng một khu chiến tích lịch sử đấu tranh cách mạng được xếp hạng và đặc biệt hơn việc tìm kiếm, quy tập hài cốt các liệt sĩ hiện còn nằm lại rất trên cánh đồng Phước Yên. Đây cũng là tâm nguyện của nhiều cựu chiến binh nói chung và người dân. Mong muốn của Đại tá Nguyễn Đức Thuận, một chiến sĩ của K8 may mắn còn sống xót sau trận chiến mà còn là nguyện vọng cháy bỏng của những gia đình liệt sĩ, CCB K8, cũng như chính quyền, nhân dân huyện Quảng Điền và Trung đoàn 38 anh hùng hôm nay.

Ngày về thăm lại trận địa xưa, những người lính K8 ngày nào vẫn sôi trong mình khí thế chiến đấu: “Chúng tôi, những người lính còn sót lại sau cuộc chiến với tuổi đã trên dưới 70, tuy sức khỏe hạn chế nhưng tinh thần vẫn hăng hái như 50 năm về trước, quyết vượt Trường Sơn đi đánh Mỹ”.

D.Y  
(TCSH341/07-2017)

............................................
(Bài viết được tổng hợp từ các bài báo của các tác giả Trịnh Văn Dũng, Phạm Hữu Thu, Hoàng Lam lời kể của các CCB Nguyễn Đức Thuận, Đỗ Bình Minh, Lê Hà Học, Đỗ Xuân Cường…).  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách