Bên cạnh mảng đề tài chiến tranh cách mạng, nhà văn quân đội Hữu Mai (1926 – 2007) còn là cây bút viết truyện trinh thám hàng đầu nước ta.
Ông là nhà văn Việt Nam đầu tiên và đại biểu chính thức duy nhất của khu vực châu Á nằm trong danh sách của Hiệp hội quốc tế những nhà văn viết truyện trinh thám (Association Internationale des Écrivains Policier – được thành lập tại Mexico năm 1989). Nhắc đến ông, là nhắc đến những bộ truyện trinh thám nổi tiếng như Ông cố vấn (1988, 1989), Đêm yên tĩnh (2000)…
Truyện tình báo là một trong ba thể tài của thể loại trinh thám: truyện tình báo – truyện phản gián – truyện vụ án hình sự. Văn học Việt Nam hiện đại vốn có mạch truyện trinh thám khơi nguồn từ thời kì 1930 - 1945 với Phạm Cao Củng, Thế Lữ là những đại biểu ưu tú nhất. Phạm Cao Củng tương đối chuyên nghiệp, còn Thế Lữ chỉ là viết “tạt ngang” nhưng cũng để lại những nhân vật có chiều sâu, tạo ấn tượng như Lê Phong phóng viên trong Gói thuốc lá. Và có thể nói người đưa truyện tình báo của Việt Nam tiến lên một giai đoạn mới là Hữu Mai. Hữu Mai viết truyện tình báo khi đã lớn tuổi, đã có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống và chiến đấu. Những truyện viết về ngành tình báo chính là một trong những lĩnh vực chiến đấu đặc biệt mà Hữu Mai đã đi sâu khai thác và đạt được những thành tựu xuất sắc.
Để có được thành công, trước hết phải kể đến công sưu tầm tài liệu. Hữu Mai sưu tầm tài liệu bằng nhiều cách, từ nhiều nguồn khác nhau như đi thực tế, tiếp xúc, phỏng vấn nhân chứng, tra cứu… Để có được những tư liệu quý, có những lần ông đã phải đi “điền dã” hàng tháng, thậm chí hàng năm trời. Tất cả được ông ghi chép cụ thể, tỉ mỉ để làm “lương khô” cho công việc viết lách sau này. Nguyễn Huy Tưởng từng phát biểu: “Thời đại chúng ta sống là một thời đại phi thường, một thời đại của “sử thi”, các tướng lĩnh và toàn thể đồng bào đem xương máu sáng tạo nên hàng nghìn, hàng vạn sự tích bi tráng, làm thành một kho vô tận tài liệu cho văn nghệ mới”. Tuy nhiên, biết nắm bắt, khai thác sự kiện, tìm hiểu thấu đáo, triệt để người và việc lại còn phụ thuộc vào ý chí và tài năng cũng như hứng thú riêng của mỗi chủ thể sáng tác. Hữu Mai là nhà văn đáp ứng đầy đủ các yêu cầu như vậy với một sức kiên trì, nhẫn nại, nghiêm cẩn và say sưa trong công việc, đặc biệt là lập hồ sơ điệp viên. Nhà văn hơn người, hơn nhiều đồng nghiệp ở chỗ đã tích lũy được vốn sống trực tiếp, đầy ắp, ngồn ngộn trong kho tư liệu cá nhân suốt bao nhiêu năm tháng.
Trong tác phẩm Ông cố vấn (tên đầy đủ là Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên), người ta đã nhận ra thao tác lập hồ sơ đặc biệt, rất riêng của Hữu Mai. Cả một chồng hồ sơ “cao như núi”, trong đó có một phần thật, lại có cả phần giả. Nếu không tinh tường, tỉnh táo, không biết cách phân tích, chọn lọc, người viết sẽ bị ngợp mà không “lẩy” ra được những tư liệu cần thiết cho tác phẩm của mình. Chúng ta bắt gặp trong tác phẩm này hồ sơ về cuộc đời của các tình báo viên cự phách như Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Xuân Hòe, Huỳnh Văn Trọng… và cả hồ sơ ở “phía bên kia” như hồ sơ về cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 lật đổ chính quyền Diệm: một bên là phe các tướng Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Lê Văn Kim; một bên là anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Ở tiểu thuyết Đêm yên tĩnh là bộ hồ sơ về chiến dịch phản gián của lực lượng an ninh vào đầu thập niên 80 của thế kỉ trước. Nhà văn đã tái hiện “kế hoạch đặc biệt” của cuộc đấu tranh chống gián điệp với quy mô lớn, như bạo loạn lật đổ trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long rất rộng. Cuộc đấu tranh diễn ra cực kì phức tạp vì còn có cả sự trợ giúp của các thế lực phản động ở nước ngoài. Là người may mắn sở hữu những tài liệu mật đã được giải mã, có những tài liệu “độc” rất quý hiếm thuộc diện “độc quyền”, nhà văn Hữu Mai bằng tài năng của mình đã biết tổ chức, sắp xếp và chuyển hóa hợp lí những chi tiết quan trọng trong các tài liệu ấy thành những “tình huống truyện” đặc sắc, sinh động. Do đó, tiểu thuyết trinh thám của ông vừa li kì, hấp dẫn lại vừa chân thật như chính cuộc đời.
Điều quan trọng bậc nhất đối với Hữu Mai là tầm nhìn – để định hướng khám phá, khai thác tư liệu của hiện thực lịch sử. Đây chính là con mắt nhìn chiến lược – con mắt nhìn chiến tranh từ phương diện chiến đấu tổng thể, tổng lực như chiến lược xây dựng mạng lưới tình báo, chiến lược chống phản gián, được thể hiện qua các chiến dịch. Chiến lược đi kèm chiến thuật qua các trận đánh độc đáo. Rồi từ con mắt nhìn ấy, nhà văn đã xây dựng “chiến lược” và cả “chiến thuật” viết. Bao quát ôm trùm tư liệu nhưng khai thác thể hiện cả những chi tiết rất phong phú, sống động. Sự tích lũy tư liệu, vốn sống (cả trực tiếp và gián tiếp) và nghệ thuật điển hình hóa là hai phương pháp chủ yếu làm nên thành công của thể tài văn học đặc sắc: truyện tình báo – như “đặc sản” của nhà văn Hữu Mai. Xét trên tổng thể, đứng ở góc nhìn thể loại, các tiểu thuyết Ông cố vấn và Đêm yên tĩnh tiêu biểu cho một nhánh của đề tài chiến tranh hiện đại Việt Nam.
Về mặt phương thức biểu hiện, các bộ tiểu thuyết tình báo cũng có những đặc sắc về kết cấu trần thuật và ngôn ngữ (ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ nhân vật), giọng điệu (các sắc thái). Trong đó, nổi bật là sự đan xen giữa kể và tả, lồng ghép các yếu tố ngẫu nhiên và tất yếu, tạo tình huống gay cấn, li kì, hấp dẫn, phù hợp với đề tài. Tất cả những điều đó làm nổi bật hình tượng nhân vật đặc biệt: người chiến sĩ tình báo Việt Nam. Nói như Chúc Ngưỡng Tu, người dịch Ông cố vấn sang Trung văn: “Bộ sách này là một thiên anh hùng ca của nhân dân Việt Nam anh hùng”.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí địa lí và số phận đặc biệt. Chúng ta đã trải qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trường kì đầy hào sảng của lịch sử thế giới hiện đại trong thế kỉ XX. Đó là một trong những lí do vì sao bạn đọc ngày nay vẫn còn hâm mộ thể loại văn học phản ánh chiến tranh dưới góc độ cuộc chiến thầm lặng trong lòng địch này. Quá khứ đã khép lại, nhưng vẫn sẽ mở ra những bài học rất bổ ích về chính trị và lịch sử dân tộc. Những tác phẩm văn học ấy đáp ứng một cách thú vị các chức năng văn học, kể cả chức năng giải trí. Những câu chuyện ấy rất hấp dẫn về kết cấu thực - hư, ẩn - hiện, với những tình tiết lắt léo đầy kịch tính, những thắt nút, mở nút, sự pha trộn ngẫu nhiên, bất ngờ, đột xuất và tất yếu quy luật. Độc giả học được cách xử trí táo bạo, khôn khéo những tình huống, phép đối ứng thông minh, mưu trí, sáng tạo hiếm có. Trên hết là sự cảm nhận những nhân cách thật đẹp - kiên cường, bất khuất, dũng cảm, ân nghĩa, thuỷ chung - của các chiến sĩ tình báo Việt Nam.
Gần bốn mươi năm gắn bó với quân đội, sáng tác khoảng hơn sáu mươi đầu sách, phần nhiều là tiểu thuyết, Hữu Mai là một trong số những nhà văn mẫn tiệp, sung sức và tận hiến cho sự nghiệp văn học cách mạng nói chung và dòng tiểu thuyết tình báo nói riêng. Độc giả nhớ đến ông với tư cách là người gợi mở quan trọng cho một thể tài tiểu thuyết đầy hứa hẹn của văn học Việt Nam. Hiện nay, dòng văn học trinh thám Việt Nam đang được tiếp sức bởi một số nhà văn trẻ sung sức tạo được dấu ấn đầy triển vọng như Đoàn Thụy Hải, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Đình Tú; gương mặt mới Giản Tư Hải với Ổ buôn người (giải C cuộc thi về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức). Và đặc biệt là nữ văn sĩ Di Li – xuất sắc với Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7, từng là chủ đề trong nhiều cuộc hội thảo của giới chuyên môn văn chương.
Có thể nói, trên bầu trời văn đàn Việt, bên cạnh những vì tinh tú khác, ngôi sao văn chương Hữu Mai phát ra một ánh sáng rất riêng, thứ ánh sáng biến hóa kì ảo như cuộc đời của các chiến sĩ tình báo Việt Nam - đề tài mà ông đam mê, theo đuổi trọn đời.
Theo Đoàn Trọng Huy - VNQĐ
Ngày 26-12, chương trình giới thiệu các ấn phẩm đạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật (VHNT) TPHCM 5 năm lần II (2012 - 2017) đã diễn ra tại TPHCM, nhiều tác phẩm có giá trị đã được xướng tên, có điều, với việc được dán nhãn “sách không bán”, chưa biết tác phẩm sẽ đến với độc giả như thế nào?
Nhà xuất bản Văn học và bạn bè, người thân, những người yêu mến tác giả Nguyễn Trọng Tạo - người nghệ sĩ tài hoa này vừa hoàn thành và ra mắt Nguyễn Trọng Tạo - tuyển tập. Bộ sách được giới thiệu tới công chúng trước ngày giỗ đầu của ông được xem như một ném tâm hương thành kính dành để tri ân tới người nghệ sĩ tác giả “Khúc hát sông quê”.
Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn TPHCM vừa công bố Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM năm 2019. Theo đó, có 4 tác phẩm được nhận giải thưởng và tặng thưởng trong năm nay.
Chiều ngày 17/12, tọa đàm ra mắt tiểu thuyết Cô độc của nhà văn Uông Triều diễn ra tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tọa đàm với chủ đề Cuộc hành hương của chữ, đã thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học đến dự và phát biểu ý kiến.
Tập thơ “Phút rành rang sống chậm” (NXB Hội Nhà văn, 2019) của nhà thơ, TS Nguyễn Trọng Hoàn (Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào đạo) có 184 bài thì hai phần ba số ấy nói đến hành vi đi và hình ảnh con đường. Ngay tại lời đề từ và bài Đề dẫn đặt đầu sách, tác giả đã viết: Ý nghĩ ăn phải bùa thiên di/ Anh đi mãi đến giờ không kịp nghĩ.
Sáng 12/12/2019, tại 58 Quán Sứ, Hà Nội, Ban Văn hoc - Nghệ thuật (V0V6) Đài Tiếng nói Việt Nam đã tổ chức buổi toạ đàm giới thiệu tiểu thuyết lịch sửĐường về Thăng Long của nhà văn Nguyễn Thế Quang.
Hãy cùng trở lại quá khứ, nghe câu chuyện có thật mà như cổ tích, để cảm nhận về một tình bạn đầy xúc động. Tình bạn giữa đôi voi Xung và Cung. Tình bạn giữa hai dân tộc Việt Nam - Liên Xô ngày ấy, Việt Nam - Liên bang Nga bây giờ.
Trong hội thảo do Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Bùi Hiển, cùng với những đánh giá và đề xuất nhận định thêm, rõ hơn về người cầm bút cần mẫn, bám sát đời sống người dân lao động, còn có những chia sẻ thân thiết về một bạn văn đáng kính của nhiều nhà văn.
Khoa Viết văn - Báo chí (tiền thân là Trường Viết văn Nguyễn Du) Trường Đại học Văn hóa Hà Nội vừa tổ chức kỷ niệm 40 năm thành lập.
Nhằm đúng ngày sinh nhật của nhà thơ Thanh Tùng, đông đảo văn nghệ sĩ đã tề tựu tại Hội Nhà văn Việt Nam để cùng trò chuyện về tài thơ cũng như cuộc đời ông, trong khuôn khổ hội thảo “Thanh Tùng – còn đây một thời hoa đỏ”.
Sáng 13-11, Hội nghị viết văn trẻ Hà Nội lần thứ III được tổ chức tại Ninh Bình. Nhiều nỗi trăn trở của người viết trẻ được nêu ra, song vẫn thiếu những giải pháp thiết thực được kiến nghị, đưa ra bàn thảo. Hơn lúc nào hết, người viết trẻ rất cần sự chung tay để phát triển tài năng, sáng tạo, vì sự phát triển văn hóa Thủ đô.
Kỉ niệm 84 năm ngày sinh nhà thơ Thanh Tùng (7/11/1935 - 12/9/2017), sáng ngày 7/11/2019, tại 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng tổ chức Hội thảo “Thơ Thanh Tùng - còn đây một thời hoa đỏ”.
Nhìn lại gần 100 năm qua, kể từ khi Thơ mới có những manh nha trên báo chí đến thời điểm hiện tại, có thể liệt hàng nghìn bài viết, công trình tập trung vào mọi khía cạnh của Thơ mới.
Tôi đọc nhiều bài thơ trong tập thơ “Biên bản thặng dư” (NXB Hội Nhà Văn 9/2019) đầy ấn tượng của nhà thơ Phùng Hiệu. Chủ lưu trong mạch trữ tình của anh là ánh nhìn tinh khôi về tình yêu, tình đời.
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CH Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery, vừa trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật cho nhà văn Ngô Tự Lập. Sự kiện nằm trong khuôn khổ Diễn đàn quốc tế “ Franconomics” được tổ chức tại L’Espace.
Ba mươi năm làm vợ làm mẹ, ba mươi năm làm báo viết văn đã đem lại cho nhà văn Y Ban nhiều trải nghiệm.
“Văn Nguyễn Minh Châu cho thấy nhiều hành trình, nhưng hành trình khiến tôi nhớ nhất là từ “Dấu chân người lính” (1972) đến “Lửa từ những ngôi nhà” (1977), vắt ngang thời điểm 1975, từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương, nhưng là một hậu phương vẫn tiếp tục là chiến trường trong đời thường không khói súng. Có thể nói chất đời tràn trề, thấm đẫm trong văn Nguyễn Minh Châu” - GS. Phong Lê chia sẻ tại hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn.
“Châu - Chút tạ tình tri âm” của tác giả Thanh Thủy là cuốn bút ký viết về cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ tài danh - NSƯT Mỹ Châu.
Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công đã góp phần tạo nên tên tuổi của nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam - Chu Lai. Hàng chục tác phẩm ra đời đã được đông đảo độc giả đón nhận nhưng chưa khi nào ông ngừng suy ngẫm và trăn trở. “Khi nào tôi còn neo vào hơi thở cần lao, còn hết lòng yêu thương con người, tôi còn tạo cho nhịp điệu trái tim mình”.
Không hoa lệ như trong những dòng văn của Thạch Lam, cũng không lãng mạn tình tứ như câu hát “sương giăng Hồ Tây trắng”... Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, hiện ra trong ký ức của tác giả Trung Sỹ rất khác.